Marissa Mayer gia nhập Google từ năm 1999 dưới vai trò kỹ sư phần mềm. Bà rời Google năm 2012 khi đang là phó chủ tịch mảng dịch vụ định vị. Từ tháng 6/2012 đến tháng 6/2017, Mayer trở thành CEO Yahoo trước khi công ty này bị Verizon mua lại. Hiện Mayer đang quản lý Lumi Labs, startup chuyên phát triển ứng dụng tích hợp trí tuệ nhân tạo. Ảnh: Reuters. |
Kendra DiGirolamo chỉ đảm nhiệm công việc điều phối quảng cáo tại Google từ tháng 6/1999 đến tháng 5/2001. Giờ đây, DiGirolamo tham gia phân tích dữ liệu doanh nghiệp tại Driscoll. Ảnh: LinkedIn. |
Larry Schwimmer cũng là một trong những kỹ sư phần mềm "đời đầu" của Google. Anh là người tạo ra hệ thống quản lý nhân viên cho Google có tên Snippets, đồng thời dẫn đắt phát triển Google Moon, một phiên bản của Google Earth dành cho mặt trăng. Schwimmer rời Google năm 2005. Ảnh: Business Insider. |
Jim Reese là kỹ sư của Google từ 1999-2005. Hiện ông nằm trong hội đồng quản trị của Spark Program, chương trình hướng nghiệp cho học sinh cấp 2 và là thành viên ban cố vấn khoa Tin học Y sinh thuộc Đại học Y Harvard. Ảnh: LinkedIn. |
Gerald Aigner được thuê để quản lý nguồn chi phí cung ứng cho Google. Từ khi thành lập Google Zurich năm 2004, Aigner được đưa vào hội đồng nhân viên cấp cao phụ trách vận hành trung tâm dữ liệu, tối ưu hiệu suất công cụ tìm kiếm của Google trước khi rời công ty năm 2006. Hiện Aigner là một "chuyên viên Internet độc lập" tại London, đồng thời là cố vấn hãng máy tính Maxeler Technologies. Ảnh: Gadgets Now. |
Susan Wojcicki là nhân viên thứ 16 của Google. Bà là người cho thuê garage để công ty này đặt văn phòng với giá 1.700 USD/tháng. Wojcicki từng là phó chủ tịch cấp cao mảng sản phẩm, thương mại và YouTube trước khi trở thành CEO YouTube từ năm 2014 đến nay. Ảnh: Getty Images. |
Joan Braddi phụ trách mảng đối tác sản phẩm cho Google từ năm 1999. Bà từng làm phó chủ tịch dịch vụ tìm kiếm, nhưng giờ đang là phó chủ tịch mảng đối tác sản phẩm. Ảnh: Gadgets Now. |
Chris Skarakis dẫn dắt mảng phát triển doanh nghiệp của Google từ tháng 5/1999 đến tháng 5/2005. Sau khi rời Google, Skarakis tạo ra dịch vụ nghe nhạc Blip.fm, đồng sáng lập kiêm phó chủ tịch Fuzz Artists. Anh cũng từng nằm trong ban giám đốc của Quỹ Kanye West trước khi giải thể năm 2011. Ảnh: LinkedIn. |
Rachael Chambers đã bỏ công việc ở Netscape để gia nhập Google năm 1999 dưới vai trò trợ lý điều hành. Tuy nhiên, bà chỉ làm đến tháng 10/2000 rồi rời đi khi đang là điều phối viên quảng cáo. Hiện Chambers giữ vị trí giám đốc chiến lược và kế hoạch tại Cisco. Ảnh: Getty Images. |
Steve Schimmel tham gia phát triển doanh nghiệp và là nhân viên thứ 13 của Google. Sau khi rời đi năm 2004, Schimmel làm việc tại Airspace Systems, startup liên doanh sản xuất máy bay không người lái và giám đốc Joseph Campbell Foundation. Hiện Schimmel tham gia đầu tư một số startup như HireAthena, Growdawn, Roozt và Guide. Ảnh: YouTube. |
Omid Kordestani (thứ 3 từ trái sang) cũng là một trong những nhân viên lâu năm tại Google. Từ tháng 1/1999 đến tháng 8/2015, Kordestani giữ cương vị giám đốc kinh doanh và cố vấn cấp cao Google trước khi đầu quân cho Twitter. Ảnh: Getty Images. |
Salar Kamangar đã làm việc tại Google được hơn 20 năm. Ông từng là CEO YouTube trước khi nhường vị trí cho Wojcicki vào tháng 2/2014 để tìm kiếm thử thách mới. Hiện Kamangar là phó chủ tịch cấp cao YouTube và mảng video của Google. Ảnh: Reuters. |
Georges Harik (phải) gia nhập Google với vị trí kỹ sư phần mềm, là một trong 3 thành viên đầu tiên của ủy ban tuyển dụng. Harik có trách nhiệm giám sát các sản phẩm như Gmail, Google Talk, Google Video, Picasa... đồng thời là giám đốc vườn ươm khởi nghiệp Googlettes. Sau khi rời Google năm 2005, Harik tham gia đồng sáng lập ứng dụng nhắn tin imo.im và là nhà đầu tư. Ảnh: Imo.im. |
Urs Hölzle là một trong ít nhân viên kỳ cựu còn làm việc tại Google. Ông là phó chủ tịch cấp cao mảng hạ tầng kỹ thuật phụ trách thiết kế, lắp đặt và vận hành máy chủ, trung tâm dữ liệu của Google. Ảnh: Business Insider. |
Amit Patel là một trong những kỹ sư hàng đầu của Google với câu slogan nổi tiếng "Đừng trở nên xấu xa". Ảnh: Reuters. |
Harry Cheung gia nhập Google từ tháng 1/1999 đến tháng 12/2004 với vai trò kỹ sư phần mềm. Ông có biệt danh là "Người Nhện" bởi công việc chính là theo dõi quá trình lập chỉ mục web của Google. Hiện Cheung tập trung đầu tư vào các startup như Caviar, Qwiki, Bagdeville và PrePay, là nhà sáng lập công ty vay tiền Roostify. Ảnh: YouTube. |
Ray Sidney cũng là kỹ sư phần mềm "đời đầu" tại Google. Anh làm việc cho công ty được 4 năm, sau đó trở thành đồng sở hữu công ty bất động sản Big George Ventures. Sidney từng quyên góp một triệu USD giúp triển khai xe buýt công cộng gần khu vực hồ Tahoe. Ảnh: YouTube. |
Heather Cairns là nhà quản lý nhân sự đã thuê 200 nhân viên đầu tiên cho Google. Công việc của bà kéo dài từ 1999 đến 2005. Sau đó, Cairns tham gia đầu tư cho các công ty do phụ nữ lãnh đạo, hiện bà là chủ tịch Coastal Streets, công ty bất động sản có trụ sở tại Massachusetts. Ảnh: YouTube. |
Craig Silverstein là nhân viên được thuê bởi chính 2 nhà sáng lập Sergey Brin và Larry Page. Ông đảm nhận nhiều vai trò như cố vấn, giám đốc công nghệ trước khi rời Google năm 2012. Hiện Silverstein là trưởng khoa cơ sở hạ tầng tại Học viện Khan, từng cùng vợ ký cam kết Giving dành phần lớn tài sản cho các mục đích xã hội. Ảnh: Business Insider. |
Sergey Brin là đồng sáng lập Google, giữ cương vị chủ tịch Alphabet (công ty mẹ của Google) đến tháng 12/2019. Trước khi trở thành chủ tịch Alphabet năm 2015, Brin tham gia giám sát Google X, đội ngũ chuyên tạo ra các sản phẩm viển vông. Ảnh: Getty Images. |
Larry Page cũng là một trong 2 nhà đồng sáng lập Google. Sau khi tái cơ cấu lại công ty, Page trở thành CEO của Alphabet. Tháng 12/2019, Page cùng với Brin tuyên bố từ chức. Trong khi Page vẫn nằm trong ban điều hành, CEO Google là Sundar Pichai đã thay thế ông để làm CEO Alpabet. Ảnh: Getty Images. |