Hiếm có nhân vật nào trong lịch sử có thể khiến những người định cư Israel và Palestine cùng ghét như cựu Thủ tướng Israel Ariel Sharon.
TIN BÀI LIÊN QUAN
|
Cựu Thủ tướng Israel Ariel Sharon |
“Chúa ban cho ông ta cái mà ông ta đáng phải nhận. Một người Do Thái không nên đẩy người Do Thái ra khỏi đất của mình” – một nhân vật cựu hữu người Israel ám chỉ quyết định rút quân ra khỏi Dải Gaza của ông Sharon vào năm 2005 khi bình luận về việc Thủ tướng Israel khi đó rơi vào tình trạng hôn mê.
Còn với nhiều người Ả Rập, ‘Sharon’ gắn liền với từ ‘thảm sát’ – đặc biệt là các vụ thảm sát tại Sabra và Shatila vào năm 1982, các sự kiện diễn ra sau khi ông Sharon cho phép dân quân người Li Băng thâm nhập vào trại tị nạn người Palestine tại Beirut và giết hại hàng trăm dân thường Palestine.
Với những người định cư Do Thái bị buộc rút ra khỏi Gaza - đặc biệt là các doanh nhân, Sharon là một kẻ phản bội; với nhiều người Ả Rập, Sharon là ‘đồ tể’. Nhận định về Ariel Sharon cũng rất trái ngược giữa những lãnh đạo tại Washington – đồng minh then chốt của Israel. Cựu Tổng thống Mỹ George W. Bush từng gọi Sharon là ‘người đàn ông của hòa bình’. Còn một cựu Tổng thống khác của Mỹ là Ronald Reagan lại viết trong nhật ký năm 1982 rằng Sharon là ‘một người chẳng ra gì, dường như chỉ tìm kiếm chiến tranh’.
Nhưng trước khi rơi vào hôn mê suốt 8 năm trước, Ariel Sharon thực sự là một nhân vật đóng vai trò then chốt đối với tiến trình hòa bình Trung Đông. Hiện trạng của Israel và Palestine lúc này mang vết tích của Ariel Sharon hơn bất kỳ nhân vật nào khác đương thời trong khu vực.
Dấu ấn lớn nhất mà Sharon để lại chính là quyết định rút khỏi Dải Gaza vào năm 2005. Tuy nhiên, quyết định này cũng nhận được ý kiến cơ bản trái chiều từ hai luồng dư luận. Một thì cho rằng hành động này của ông đã đóng góp tích cực cho tiến trình hòa bình Trung Đông. Bên hoài nghi thì lại cho rằng quyết định này đã bị hiểu sai thành một hành động ‘thiện chí’ có được trong sự thay đổi về mặt tư tưởng của Sharon, và rằng di sản của ông chỉ khiến hủy hoại chứ không phải là thúc đẩy hòa bình.
Theo luồng ý kiến thứ nhất, Ariel Sharon không phải là người mang quan điểm cựu hữu, dù cũng là một nhân vật cứng rắn và tham gia thành lập Đảng Likud.
Năm 2001, Sharon đánh bại Thủ tướng Ehud Barak trong cuộc bầu cử, và chỉ trích quan điểm của ông Barak nhằm ủng hộ cho vị thế nhà nước của Palestine. Nhưng khi nhậm chức Thủ tướng, ông nhận ra rằng tình trạng hiện tại của hai bên khi đó không ổn, đặc biệt là ở khía cạnh nhân khẩu học, ngoại giao, và an ninh. Từ đó, ông theo đuổi giải pháp hai nhà nước và ‘lộ trình’ hòa bình của cộng đồng quốc tế vào năm 2003.
Tuy vậy, ông vẫn không đặt niềm tin vào việc có thể đi tới thỏa thuận lâu dài với người Palestine về vấn đề này. Kế hoạch của ông Sharon rốt cuộc vẫn bao gồm việc làm lung lạc Chính quyền Palestine, chứ không làm việc với họ. Và dần ông tin rằng chỉ có chính sách ‘cách ly’ khỏi người Palestine thì mới đảm bảo cho Israel.
Quá trình này bao gồm hai giai đoạn. Bước đi thứ nhất là xây dựng nên một hàng rào dày đặc tại Bờ Tây ngăn các khu định cư lớn nhất của người Do Thái và người dân Palestine. Điều này đã khiến rất nhiều người cực hữu tại Israel nổi giận, họ phản đối việc ‘từ bỏ’ người Do Thái ở Bờ Tây. Nhưng ý tưởng này lại nhận được sự ủng hộ rất lớn từ đa số. Trong cuộc thăm dò dư luận tháng 10/2003, hơn 80% người Israel nói rằng họ tin việc xây dựng các hàng rào và tường dày có thể giảm hoặc ngăn các vụ đánh bom ở các quán cà phê và xe buýt ở Israel.
Năm 2004, Sharon tuyên bố rằng ông đang tiến hành bước đi thứ hai xa hơn nữa, đó là rút lui khỏi Gaza. Ông thấy rằng Israel cần rút khỏi Gaza, nhưng mặt khác, ông lại coi vị lãnh đạo của Palestine khi đó là Chủ tịch Yasser Arafat không phải là đối tác cho hòa bình.
Thay vào đó, Israel có thể đơn phương rút lực lượng khỏi vùng lãnh thổ và buộc 8.000 người định cư Do Thái rời khỏi vùng đất đang sống chung với hơn 1,3 triệu người Palestine. Kế hoạch này vấp phải chỉ trích nặng nề từ những người cánh hữu và buộc ông Sharon phải tuyệt giao với đảng Likud, và thành lập đảng riêng là Kadima.
Tháng 8/2005, kế hoạch rút lui khỏi Gaza thực thi cùng với việc giải tán bốn khu định cư tại Bờ Tây, nhưng rồi đó chỉ là bước khởi đầu. Sharon đã bắt đầu lên kế hoạch cho bầu cử vào tháng 3/2006, nhưng rồi bị đột quỵ nhẹ. Tới ngày 4/1/2006, cơn đột quỵ thứ hai xảy đến và ông không còn tỉnh táo trở lại.
Cho dù có phải là nhờ chính sách của Sharon hay không, thì thực tế là con số dân thường Israel thiệt mạng vì bị tấn công từ phía Palestine cũng giảm đáng kể. Thương vong từ phía Israel xảy ra chủ yếu là do đạn pháo từ dải Gaza, chứ không phải từ các vụ đánh bom liều chết.
Tuy nhiên, luồng ý kiến thứ hai cho rằng việc rút người định cư Do Thái khỏi Gaza chỉ đơn giản là tính toán của Sharon. Cái giá của việc bảo vệ số nhỏ người định cư Do Thái trong phần đông người Palestine ở một vùng lãnh thổ rất nhỏ này lớn hơn rất nhiều so với những lợi ích họ có được khi sinh sống ở đây.
Theo đó, việc rút lui này cũng không đóng góp gì cho tiến trình hòa bình. Thay vào đó, nó lại khiến tình trạng đóng băng thê thảm hơn mà theo một trong những thân tín của ông Sharon khi đó là Dov Weisglass, đây chính xác là một kế hoạch sắp sẵn.
Tờ Aljazzera có dẫn lời nhân vật này, cho biết: “Điều quan trọng trong kế hoạch rút lui chính là làm đóng băng tiến trình hòa bình. Nó mang lại chất phooc-môn cần thiết nên sẽ chẳng có tiến triển nào về mặt chính trị với người Palestine”.
“Khi anh làm đóng băng tiến trình, anh ngăn được quá trình thiết lập một nhà nước Palestine. Toàn bộ ‘nhà nước Palestine’ cùng với mọi di sản của nó đã ngay lập tức bị gạt khỏi chương trình nghị sự của chúng tôi” - Dov Weisglass nói thêm.
Tám năm sau đó, tức là vào lúc này, cuộc xung đột Israel – Palestine vẫn rơi vào thế bế tắc. Hàng rào ngăn cách mà ông Sharon đề xuất vẫn còn đó, làm cho đời sống của người dân Palestine gặp phải nhiều khó khăn và rắc rối, đôi khi lại ngăn cách họ khỏi chính vùng đất của mình. Sharon chưa bao giờ nói rằng các hàng rào này sẽ tồn tại vĩnh viễn, nhưng rõ ràng, không ai biết khi nào thì những bức tường này mới biến mất.
Bên cạnh đó, vì hành động rút quân đơn phương nên Sharon đã làm xói mòn Chính quyền Palestine và cùng lúc, tạo cơ hội cho lực lượng Hamas ở Gaza trỗi dậy. Người kế nhiệm của ông Sharon là Ehud Olmert được cho là tiến gần tới một thỏa thuận với Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas vào năm 2008, nhưng các cuộc đàm phán thất bại khi xung đột nổ ra giữa Israel và lực lượng cực đoan Palestine là Hamas ở Gaza.
Sự phân hóa trong hàng ngũ lãnh đạo Palestine đã khiến phía Israel hoài nghi rằng Tổng thống Abbas có thể thực thi thỏa thuận hòa bình, trong khi đạn pháo từ Gaza đã khiến nhiều người Israel hoài nghi về sự sáng suốt khi rút khỏi Gaza.
Cũng theo cách nhìn này, bản chất của việc rút lui năm 2005 chính là việc hợp tác về mặt an ninh với Chính quyền Palestine (PA) không bao giờ xảy ra. Lực lượng Fatah do PA thành lập nên chật vật tìm cách lấp chỗ trống quyền lực mà Israel để lại tại những nơi mà lực lượng Hamas chiếm ưu thế. Những sự kiện diễn ra sau đó, bao gồm sự trỗi dậy về mặt chính trị của Hamas và việc nắm quyền của lực lượng này tại Gaza, việc lật đổ Fatah cũng đồng nghĩa với việc Bờ Tây và Gaza – hai vùng đất đáng ra phải thuộc về cùng một nhà nước Palestine – lại bị ngăn cách hơn bao giờ hết. Và do đó, Israel sẽ tiếp tục coi đây là cái cớ để không bao giờ hòa hoãn.
Cho đến lúc này, Thủ tướng đương nhiệm Israel là Benjamin Netanyahu dường như vẫn phải giữ hiện trạng mà chính sách của Sharon để lại, dù ông đã từng rất phản đối điều này. Không một đột phá ngoại giao nào hay nhượng bộ đáng kể nào của Israel xảy đến kể từ khi Sharon rơi vào hôn mê, và viễn cảnh cho các vòng đàm phán hòa bình mà Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đang dẫn dắt lúc này vẫn khuất dạng.
Lê Thu (theo AP/Reuters/ Aljazzera/The Atlantic)