- Ai cũng ước, giá như quê mình có một khu công nghiệp nào đó, hay nhà nước định hướng cho bà con phát triển một nghề nào đó ở quê thì sẽ không còn ai phải tha hương, hằng ngày phải nghe những câu hỏi đắng lòng của người đến “mua sức”: “Đây là “chợ người” phải không?!”.
Những mảnh đời đi bán sức lao
động
Người ta gọi là chợ người lao động bởi ở đây tụ họp rất nhiều người, nhưng chỉ
mua bán một loại hàng hóa duy nhất: Sức lao động.
Mỗi ngày đều có hàng trăm người ra đây ngồi ngóng xem có ai đến “mua” sức thì “bán”. Họ có thể làm bất cứ việc gì từ quét dọn, lau nhà, đến gánh đất cát, chở gạch, bốc xi măng, chuyển nhà...
Những cảnh “vạ vật” ở khu chợ người lao động |
Thời điểm này những năm trước, người lao động thời vụ “chạy sô” cũng không hết việc. Nhưng năm nay, khắp các chợ lao động tại Hà Nội như: đường Bưởi, ngã tư Giảng Võ, chân cầu vượt Mai Dịch…đều chung một cảnh nặng nề, ế ẩm.
Dù 12 giờ trưa nhưng chợ người lao động ở đường Bưởi vẫn có gần 40-50 người ngồi ngóng việc. Có thời điểm, ở đây tập trung hơn trăm lao động mà chủ yếu quê ở Nghệ An, Thanh Hoá...
Mỗi người một hoàn cảnh, có người vì quá ít ruộng, có người vì lụt lội, mất mùa triền miên, có người đi xuất khẩu lao động nhưng phải về và đang gánh nợ hàng trăm triệu, có những cậu sinh viên mới ra trường, chưa xin được việc làm… đều ra “chợ người” để bán sức lao động.
Lại cũng có hoàn cảnh cả hai bố con, hai vợ chồng cùng ra đây “họp chợ” để tìm kế sinh nhai.
Mùa vừa rồi bị lụt nên cả 6 sào ruộng nhà anh Nguyễn Hồ Đức, quê Kiến Thạch, Nghệ An đều mất trắng.Bây giờ gạo ăn cũng phải đi đong từng ngày. Anh phải ra đây làm để hàng tháng có tiền gửi về quê cho vợ mua gạo, cho 2 cậu con trai đang học trong thành phố Hồ Chí Minh và cậu con út học lớp 12.
“Chưa đến cuối tháng ở quê đã điện lên nào là nhà hết gạo, đứa xin tiền đóng học phí, đứa chuẩn bị thi tốt nghiệp, đứa mua sách vở…nên mỗi lần về quê chưa được mươi ngày đã hết tiền. Có lần còn không đủ trả nợ. Vậy là lại vội vàng khăn gói ra đây, chứ ở quê bây giờ thì “chết” cả nhà!” – anh Đức chia sẻ.
Ai cũng mỏi mắt ngóng việc |
Còn hai cha con bác Nguyễn Hữu Thịnh và anh Nguyễn Hữu Bảy đã làm ở khu chợ người lao động này được hơn 3 năm nhưng với hoàn cảnh khác. Những năm trước ở các làng quê Việt Nam rộ lên phong trào xuất khẩu lao động đi nước ngoài.
Với ước mơ sẽ nhanh chóng đổi đời, không ít những người nông dân nghèo đã chạy vạy vay mượn khắp nơi từ người thân đến ngân hàng để có tiền đi xuất khẩu. Cả nhà anh Bảy vay mượn được hơn 100 triệu cho anh sang Ả Rập Xê Út lao động.
Nhưng đi chưa đầy một tháng anh đã phải về nước
vì tin vợ ốm nặng. Vậy là không những không có tiền mang về, anh còn phải gánh
cả một cục nợ trên vai.
Rồi hai bố con tìm đường ra Hà Nội mưu sinh và đến khu chợ người lao động này.
Bác Thịnh hằng ngày chạy xe ôm, còn anh Bảy thì ai mướn việc gì làm việc đó, bất
kể nặng nhọc như vác xi măng, vác gạch, đào móng nhà…với hy vọng sẽ kiếm được đủ
tiền trang trải số nợ hàng trăm triệu kia.
Còn với Nguyễn Đức Hải, cậu thanh niên còn trẻ măng, dù đã tốt nghiệp trường Đại
học dân lập Đông Đô nhưng chưa xin được việc làm nên ra đây để chạy xe ôm và đợi
người ta thuê mướn.
Khu chợ người lao động ở chân cầu vượt Mai Dịch phần nhiều đều là những chị em
phụ nữ ở Diễn - Phùng tranh thủ lúc nông nhàn ra đây đề kiếm thêm thu nhập. Cả
chợ ai cũng biết đến hai vợ chồng anh N.V.T và chị N.T.L.
Không chỉ bởi hoàn cảnh của anh chị rất khó khăn, mà bởi nhờ “bán sức” ở khu chợ người lao động này mà anh chị đã nuôi 3 đứa con ăn học trưởng thành. Các con của anh chị bây giờ đều là sinh viên của những trường đại học có tiếng ở Hà Nội.
“Có con học đại học, vui thì vui thật, nhưng lo
lắm. Mỗi tháng kiểu gì cũng phải để ra được 3 triệu cho ba đứa. Còn thiếu bao
nhiêu chúng nó phải tự đi làm thêm để trang trải” – anh chị tâm sự trong tiếng
thở dài.
Người càng đông, “chợ” càng ế ẩm
Vì mua bán một loại “hàng hóa” đặc biệt nên chợ người cũng không giống những
phiên chợ thường.
Ở đây người càng đông, chợ càng ế ẩm. Bởi việc
làm thì ít mà người đi “bán sức” ngày một nhiều.
Không khí nặng nề, ế ẩm bao trùm cả khu chợ |
Chẳng thế mà mỗi khi có người hỏi “Đây có phải “chợ người” không?”, thì tất cả mọi người cùng đổ xô lại: “Đúng! Đúng rồi! Anh cần làm gì hả anh? Cần bao nhiêu người chúng em cũng có!”. Nhưng rồi người ta chỉ thuê hai thanh niên khỏe mạnh nhất, còn những người khác lại ngồi trông ngóng.
Nhìn cảnh người đứng, người ngồi, người nằm, người gục mặt tranh thủ ngủ…mới thấy hết cảnh ảm đạm và ế ẩm ở khu chợ người này.
Bác Nguyễn Bá Vượng, quê ở Nghệ An ra đây làm nghề xe ôm đã được hơn 10 năm cho biết: Những năm trước chợ còn thưa người, việc làm cũng còn nhiều thì ngày cao điểm, có thể kiếm được năm trăm đến sáu trăm nghìn. Còn bây giờ ngày nào may mắn ra mới được trăm rưỡi, hai trăm nghìn…
Còn phần nhiều là không có khách,
sáng đi, tối lại về không! Theo bác thì cũng vì người đến họp chợ đông quá. Ngày
trước chỉ có một vài người chở xe ôm như bác, bây giờ cả khu chợ này có không
dưới 20 người cũng làm nghề xe ôm. Kiếm được đồng tiền ngày càng khó khăn.
Nhìn đôi mắt đầy lo âu của người cha đã ngoài ngũ tuần này, chúng tôi không khỏi
xót xa. Ở nơi kia, 4 đứa con đang ăn học trong miền Nam vẫn từng ngày mong tin
bác!
Cả chợ đổ xô lại mỗi khi thấy có người đến thuê mướn |
Hai cha con bác Thịnh và anh Bảy cũng không khá hơn. Anh Bảy tâm sự từ năm ngoái
đến nay, người đến thuê việc ít đi hẳn. Hôm nào may mắn ra thì được một hai
người thuê đi bốc vác chốc lát.
Còn lại, cả ngày ngồi chơi thế
này. Có đến mấy hôm cả hai cha con không kiếm được việc gì để làm, đành đi nhặt
rác, thu gom vỏ chai, đồ đồng nát để bán lấy tiền sống qua ngày.
Vừa nhìn xa xăm, bác Thịnh vừa tâm sự: “Có lẽ mấy hôm nữa lại phải khăn gói về
quê như những lần trước. Vì trên này bây giờ cái gì cũng đắt ghê người. Ăn một
bữa cơm bụi 20 nghìn mà vẫn còn đói. Tiền phòng trọ, điện nước mỗi tháng bèo ra
cũng bảy, tám trăm nghìn mà việc làm thì vẫn không có”.
Cũng như cha con bác Thịnh, anh Bảy, ở đây khuôn mặt ai cũng khắc khổ, sạm đen
vì nắng gió miền Trung, hay vì suốt bao năm nay, cái nghèo, cái khổ vẫn đeo đẳng
họ mãi không thôi.
Ai cũng ước, giá như quê mình có
một khu công nghiệp nào đó, hay nhà nước định hướng cho bà con phát triển một
nghề nào đó ở quê thì sẽ không còn ai phải tha hương, hằng ngày phải nghe những
câu hỏi đắng lòng của người đến “mua sức”: “Đây là “chợ người” phải không?!”.
Biết đến bao giờ ở Hà Nội mới không còn những khu chợ người lao động như thế này
nữa? Để không còn những ước muốn nghẹn lòng như ai đó ở đây đã buột miệng nói
ra: “Ước gì bây giờ có vài tấn xi măng để người ta thuê mình vác nhỉ?!”.
Vũ Viết Tuân