- Khi công dân xuất trình thẻ căn cước, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền không được yêu cầu họ xuất trình thêm giấy tờ khác chứng nhận các thông tin đã có trên thẻ, Thứ trưởng Bộ Công an khẳng định.
Văn phòng Chủ tịch nước vừa công bố 2 luật quan trọng mà QH vừa thông qua tại kỳ họp vừa rồi, luật Căn cước công dân và luật Hộ tịch.
Theo luật Căn cước công dân, từ ngày 1/1/2016, công dân VN từ đủ 14 tuổi trở lên sẽ có giấy tờ tùy thân quan trọng nhất là thẻ căn cước công dân. Thẻ này có giá trị chứng minh về căn cước công dân để thực hiện các giao dịch trên lãnh thổ VN, được sử dụng thay cho việc sử dụng hộ chiếu trong trường hợp VN và nước ngoài ký kết điều ước hoặc thỏa thuận quốc tế cho phép công dân được sử dụng thẻ căn cước công dân thay cho hộ chiếu trên lãnh thổ của nhau.
Thượng tướng Đặng Văn Hiếu, Thứ trưởng Công an giới thiệu luật Căn cước công dân. Ảnh: Hà Nội mới |
“Khi công dân xuất trình thẻ căn cước thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền đó không được yêu cầu xuất trình thêm giấy tờ khác chứng nhận các thông tin đã có trên thẻ”, Thượng tướng Đặng Văn Hiếu, Thứ trưởng thường trực Bộ Công an cho biết.
Cùng lúc đó, những thông tin nhân thân cơ bản của công dân được tập hợp và lưu trữ tại cơ sở dữ liệu dùng chung do Bộ Công an quản lý.
Các thông tin này gồm: Họ, chữ đệm và tên khai sinh; ngày, tháng, năm sinh; giới tính; nơi đăng ký khai sinh; quê quán; dân tộc; tôn giáo; quốc tịch; tình trạng hôn nhân; nơi thường trú; nơi ở hiện tại; nhóm máu, khi công dân yêu cầu cập nhật và xuất trình bản kết luận về xét nghiệm xác định nhóm máu của người đó; họ và tên, số định danh cá nhân hoặc số CMND, quốc tịch của cha, mẹ, vợ, chồng hoặc người đại diện hợp pháp; họ và tên, số định danh cá nhân hoặc số CMND của chủ hộ, quan hệ với chủ hộ; ngày, tháng, năm chết hoặc mất tích.
Công dân không phải nộp lệ phí khi cấp thẻ căn cước công dân lần đầu, đổi thẻ căn cước công dân khi đến tuổi đổi thẻ theo quy định của luật hoặc có sai sót về thông tin trên thẻ do lỗi của cơ quan quản lý căn cước công dân. Các trường hợp đổi, cấp lại khác thì mới phải nộp lệ phí.
Từ nay đến 1/1/2016, công dân vẫn được cấp CMND 9 số (cấp thủ công) và 12 số (theo công nghệ mới), theo Thiếu tướng Trần Văn Vệ, Phó tổng cục trưởng Tổng cục VII - Bộ Công an. Các CMND này có giá trị sử dụng đến hết thời hạn theo quy định. Khi công dân có yêu cầu thì được đổi sang thẻ căn cước công dân.
Các loại giấy tờ có giá trị pháp lý đã phát hành có sử dụng thông tin từ CMND vẫn nguyên hiệu lực pháp luật. Các loại biểu mẫu đã phát hành quy định sử dụng thông tin từ CMND được tiếp tục sử dụng đến hết ngày 31/12/2019. Chậm nhất là từ 1/1/2020, công dân sẽ được cấp toàn bộ căn cước công dân theo công nghệ mới.
Còn theo luật Hộ tịch, trước khi được cấp thẻ căn cước công dân, trẻ em trong 14 năm đầu đời vẫn có giấy khai sinh. Mã số định danh công dân được cấp cùng với giấy khai sinh chính là mã số trên thẻ căn cước công dân sau này.
Giấy chứng nhận kết hôn cũng vẫn được cấp kể cả khi đã có thẻ căn cước công dân.
Thứ trưởng Tư pháp Nguyễn Khánh Ngọc
giới thiệu luật Hộ tịch. Ảnh: Chung Hoàng |
Luật Hộ tịch có hiệu lực từ ngày 1/1/2016 để có thời gian hoàn thiện hệ thống và đào tạo cán bộ đáp ứng được các đổi mới.
Chung Hoàng