Theo hướng dẫn của nhiều hiệp hội chuyên khoa, polyp đại trực tràng được định nghĩa là ác tính khi tổn thương đã xâm lấn ít nhất tới lớp dưới niêm mạc (được ký hiệu là pT1 trên kết quả mô bệnh học).

Về nguyên tắc, khi kết quả trả lời là ác tính, bệnh nhân phải được đánh giá toàn thân để đánh giá chính xác giai đoạn bệnh, đặc biệt là chụp cắt lớp vi tính lồng ngực, ổ bụng, tiểu khung và có thể cả MRI vùng chậu, xét nghiệm công thức máu, sinh hóa máu, các chất chỉ điểm ung thư (như CEA),… để đánh giá tốt hơn mức độ xâm lấn và lan tràn của polyp tại chỗ, tại vùng cũng như phát hiện các tổn thương di căn xa nếu có.

Nội soi đường tiêu hóa cho bệnh nhân. Ảnh: BVBM

Khi chưa có di căn hạch và di căn xa, khi nào nên phẫu thuật dù polyp đã cắt qua nội soi?

Trong tình trạng này, việc có phải phẫu thuật hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ xâm lấn của ung thư, độ mô học và tình trạng diện cắt.

Kết quả mô bệnh học được chia thành 2 nhóm: thuận lợi và không thuận lợi. Kết quả thuận lợi là khi độ mô học của u chỉ ở độ 1 và độ 2, chưa có xâm nhập mạch máu, thần kinh và diện cắt không có tế bào ung thư. Với các trường hợp này, có thể chỉ cần theo dõi mà không phải mổ lại.

Kết quả không thuận lợi với polyp đại trực tràng ác tính gồm độ mô học 3 hoặc 4, ung thư đã xâm lấn mạch hoặc diện cắt còn tế bào ung thư. Với nhóm này nhiều tác giả đưa ra lựa chọn phẫu thuật dù polyp đại trực tràng đã được cắt bỏ hoàn toàn qua nội soi trước đó, đặc biệt với các polyp phẳng (polyp không có cuống).

Nguyên nhân có lựa chọn này là do nhiều báo cáo đã cho thấy polyp phẳng có tiên lượng xấu hơn đáng kể so với polyp có cuống cả về tỷ lệ tái phát bệnh, tỷ lệ di căn và tỷ lệ tử vong.

Khi đó nếu tình trạng bệnh nhân cho phép, việc phẫu thuật điều trị ung thư theo nguyên tắc bao gồm cả nạo vét hạch bạch huyết nên được thực hiện. Việc hội chẩn hội đồng đa chuyên khoa là cần thiết để có thể đưa ra quyết định phù hợp nhất với từng bệnh nhân cụ thể. 

Một số vấn đề khác cần chú ý

Tất cả những bệnh nhân polyp đại trực tràng ác tính đã được phẫu thuật cần được khám, theo dõi định kỳ, đặc biệt là nội soi đại trực tràng toàn bộ để phát hiện các polyp ở vị trí khác hay phát hiện ung thư tái phát.

Quá trình tiến triển tự nhiên của polyp thành ung thư đại trực tràng. Nguồn: Bệnh viện 108

Ngoài giải phẫu bệnh, xét nghiệm gene sửa chữa ghép cặp nên được thực hiện để chẩn đoán một số hội chứng di truyền có thể gây ung thư đại trực tràng, góp phần đưa ra quyết định về việc điều trị hóa trị sau đó, cũng như tư vấn di truyền cho người thân bệnh nhân. Hóa trị bổ trợ không được khuyến cáo cho các bệnh nhân polyp đại trực tràng ác tính mà ung thư mới ở giai đoạn I.

Sàng lọc thường xuyên để loại trừ nguy cơ polyp đại trực tràng tiến triển thành ung thư 

Polyp đại trực tràng là một trong những yếu tố nguy cơ ung thư đại trực tràng, qua nội soi ống mềm bác sĩ có thể dùng dụng cụ chuyên dụng để cắt bỏ sớm nhằm ngăn ngừa các biến chứng (ung thư hóa, chảy máu từ polyp, tắc ruột…). Một polyp đại trực tràng cần thời gian 10-15 năm để phát triển thành ung thư. Với sàng lọc thường xuyên, đa số polyp đại trực tràng được phát hiện và cắt bỏ trước khi phát triển thành ung thư.

Sau cắt polyp đại tràng, bệnh nhân nên theo dõi liên tục, tiến hành nội soi đại tràng ít nhất 1 lần/năm để phát hiện polyp mới (nếu có) hoặc các bất thường ở đường tiêu hóa. 

Bác sĩ chuyên khoa 1 Trần Thu Hạnh, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu - Bệnh viện Bạch Mai