Tại bệnh viện, người đàn ông 55 tuổi được nội soi đại tràng, chụp CT bụng, CT ngực, chụp MRI vùng chậu. Dựa vào kết quả hình ảnh, bác sĩ chẩn đoán ông bị ung thư trực tràng 1/3 giữa, giai đoạn 3. Bệnh nhân được thực hiện hóa trị, xạ trị trước mổ. Sau đó, các bác sĩ phẫu thuật nội soi cắt đoạn đại trực tràng, nối đại tràng và trực tràng giúp người bệnh có thể đi tiêu bình thường. 

Một bệnh nhân khác, 63 tuổi, ngụ tại TP.HCM cũng đến khám do có rối loạn tiêu hoá, đi phân lỏng 3-4 lần/ngày. Tình trạng này kéo dài nhiều tháng, bệnh nhân nghĩ do rối loạn tiêu hóa và tự mua thuốc uống tại nhà. Tuy nhiên, tình trạng không cải thiện.

Tại bệnh viện, bác sĩ nghi ngờ người bệnh có khối u nên đã chỉ định nội soi đại tràng. Kết quả ghi nhận tổn thương nghi ung thư giai đoạn sớm của trực tràng.

Phẫu thuật nội soi ung thư đại trực tràng tại Bệnh viện Đại học Y dược TP.HCM.

Những bệnh nhân trên đều có chung đặc điểm bất thường khi đi cầu là ra máu đỏ tươi và tiêu chảy kéo dài. Theo tiến sĩ, bác sĩ Ung Văn Việt, Phó trưởng khoa Ngoại tiêu hóa, Bệnh viện Đại học Y dược TP.HCM, người bệnh ung thư đại trực tràng có nhiều thay đổi về đường tiêu hóa, bài tiết.

Cụ thể, người bệnh đi cầu ra máu đỏ tươi, tùy người có thể đi với lượng nhỏ vài chục ml cho đến khoảng vài trăm ml. Nếu đi tiêu ra máu đỏ tươi lượng nhiều, người bệnh sẽ ngất xỉu sau đó.

Bên cạnh đó, người bệnh cũng có thể đi tiêu có phân nhầy lẫn máu, hoặc bị thay đổi tính chất đi tiêu và hình dáng phân. Ví dụ bình thường đi vệ sinh phân tròn, nhưng bất thường chuyển thành hình dẹt. 

Thói quen đi vệ sinh thay đổi cũng có thể là 1 triệu chứng. Ví dụ, mỗi ngày có thể đi 1-2 lần/ngày, nhưng khi có vấn đề về trực tràng, người bệnh có thể bị táo bón hoặc tiêu chảy kéo dài. Một số người có thể vừa bị táo bón, vừa bị tiêu chảy.

Ngoài ra, một triệu chứng không điển hình là đầy hơi, khó tiêu, nôn ói do khối u gây tắc ruột. Nếu cơ thể gặp tình trạng mệt mỏi, suy kiệt, giảm cân nhiều mà không biết lý do, người bệnh nên đi khám sớm vì có thể liên quan đến bệnh lý đại trực tràng. 

Hiện nay, ung thư đại trực tràng là ung thư phổ biến hàng thứ 5 tại Việt Nam sau ung thư gan, phổi, dạ dày, vú. Năm 2020, Việt Nam ghi nhận gần 16 ngàn ca mắc mới và hơn 8.200 ca tử vong vì căn bệnh này.

Ung thư đại trực tràng là tên gọi dùng để chỉ loại ung thư xảy ra ở đại tràng - trực tràng. Trong đa số trường hợp, ung thư xuất phát từ niêm mạc (lớp trong cùng) của đại - trực tràng. 

Tiến sĩ, bác sĩ Ung Văn Việt cho biết, đây là ung thư phổ biến của đường tiêu hóa, việc phát hiện và điều trị khi bệnh ở giai đoạn càng sớm sẽ cho kết quả tốt trong thời gian dài. Để phát hiện sớm, người bệnh nên khám sức khỏe định kỳ và tầm soát ung thư.

Về yếu tố nguy cơ, theo các bác sĩ, người có tiền căn polyp tuyến, polyp răng cưa không cuống, viêm ruột, có tiền căn gia đình bị ung thư đại trực tràng, đa polyp gia đình hay polyp tuyến tiến triển, là những đối tượng có nguy cơ cao mắc ung thư đại trực tràng.

Ngoài ra, người bệnh tiểu đường hay ung thư vú cũng được xem là đối tượng dễ mắc ung thư đại trực tràng hơn người bình thường. 

Bên cạnh đó, bệnh có thể gặp phải ở người có chế độ ăn ít chất xơ, nhiều mỡ và đạm động vật. Chế độ ăn này làm thay đổi vi khuẩn yếm khí ở đại trực tràng, biến axit mật và cholesterin thành những chất gây ung thư. Đồng thời, chế độ ăn ít chất xơ làm giảm khối lượng phân gây táo bón, chất gây ung thư tiếp xúc với niêm mạc ruột lâu hơn và cô đặc hơn, tác động lên biểu mô của đại tràng.

Bác sĩ Việt nhấn mạnh, ngay cả khi đã được điều trị triệt căn, người bệnh vẫn có nguy cơ xuất hiện tế bào ung thư đại trực tràng mới. Do đó, sau khi điều trị, người bệnh cần được tái khám định kỳ đúng lịch để được làm các xét nghiệm máu, siêu âm bụng, soi đại tràng, chụp hình cắt lớp để đánh giá nguy cơ tái phát.