World Bank ước tính một doanh thu 400 tỉ USD năm dành cho khu vực đại học tư nhân. Sự hấp dẫn đó đã làm hình thành một chuỗi các đại học vì-lợi nhuận.



Giáo dục ĐH trở thành một ngành kinh doanh

World Bank ước tính một doanh thu 400 tỉ USD năm dành cho khu vực đại học tư nhân. Sự hấp dẫn đó đã làm hình thành một chuỗi các đại học vì-lợi nhuận, for-profit, ngược với truyền thống đại học-phi lợi nhuận, đặc biệt tại Hoa Kỳ là nơi có rất nhiều đại học tư phi-lợi nhuận nổi tiếng và mẫu mực thế giới. Loại đại học này tăng trưởng mạnh mẽ tại châu Á và châu Mỹ La tinh, nơi hệ thống đại học công không theo kịp sự tăng trưởng nhanh của sinh viên. Những con số của Ben Wildavsky gây ngạc nhiên: giáo dục vì-lợi nhuận đã chiếm thị phần cực kỳ cao: 80% tại Hàn Quốc, 77% tại Nhật Bản, 75% tại Ấn Độ và Brazil, 68% tại Philippines, Indonesia và Columbia, và 63% tại Bỉ. Tại Mexico và ngay tại Hoa Kỳ, con số cũng không nhỏ: 33 và 32%. Trong khi đa số các trường đại học vì-lợi nhuận là của các nước sở tại, thì có một nhóm ‘tay chơi’ quốc tế bước vào cuộc, chủ yếu xuất phát từ Hoa Kỳ: Laureate Education, Whitney International, Apollo Global, University of Phoenix, Kaplan Inc.,

Có nhiều ‘biến tướng’ trong thế giới đại học vì-lợi nhuận. Một dạng ‘lưỡng thể’: học địa phương hai năm, ra nước ngoài tu nghiệp hai năm, hay đại loại. Hình thức này thường đòi hỏi cao hơn về chất lượng ở sinh viên. Hay các hình thức hợp tác giữa đại học phi-lợi nhuận và vì-lợi nhuận. Hoặc các hình thức học ảo, giảng dạy ảo, giảng đường ảo, trên mạng toàn cầu, không thầy, không campus, không tất cả. Học và dạy một cách ‘vô danh’.

Các đại học vì-lợi nhuận hay đại học ảo đang là vấn đề tranh luận lớn. Một mặt các đại học đó tạo ra những người có nghề nghiệp, có một số vốn tri thức, và kỹ năng nhất định cần thiết cho cuộc sống vừa giải phóng các đại học tinh hoa, giảm áp lực, đồng thời cũng “đe dọa sự tồn tại của đại học nghiên cứu-tập trung”. Chúng ta phải rất thận trọng trước cơn “đại hồng thuỷ” này (G. Casper). Vấn đề lớn là cần có sự giám sát hữu hiệu từ phía nhà nước có thể hữu ích, ít nhất là để loại bỏ các tổ chức kinh doanh “ăn xổi ở thì”.

Đại học phục vụ cộng đồng

Đại học đã giữ vững tên tuổi mình trên thế giới gần ngàn năm qua là vì nó tiếp tục nỗ lực bảo vệ và tăng cường vai trò của chân lý (truth) và phẩm chất xứng đáng (merit) trong thế giới hàn lâm, và phục vụ xã hội, tăng trưởng kinh tế (Clark Kerr). Benjamin Franklin (1706-1790) có lẽ là người Mỹ đầu tiên nhấn mạnh các đóng góp thiết thực của giáo dục cho nông nghiệp, thương mại và công nghiệp. Đó là tinh thần phục vụ cộng đồng của đại học Hoa Kỳ, và điều đó được thực hiện ở quy mô một trăm năm sau.

Đại học được quan niệm có nhiều nhiệm vụ, không phải chỉ là dịch vụ. Ngoài việc phục vụ kinh tế, chính trị, quốc phòng, đại học còn có nhiệm vụ góp phần cải cách xã hội, do đó phải mang tính chất phản biện, dissenting. Noam Chomsky trong bài viết “Trách nhiệm của trí thức” cho rằng, trách nhiệm của họ là “tạo ra và phân tích ý thức hệ”, chứ không phải chỉ là tạo ra các chuyên gia để làm bộ máy xã hội chạy tốt. Ý ông muốn nói: tạo ra ‘triết lý’ cho xã hội là việc có tầm quan trọng hơn.

Một đề tài mà quyển sách còn chưa đề cập tới, đó là giáo dục nhân bản, nằm trong phần giáo dục tổng quát, general education, những năm đầu đại học. Clark Kerr, nhà quản lý giáo dục huyền thoại của Hoa Kỳ, tuy chia sẻ những mong muốn ấy, nhưng lại có ít hy vọng. Ông nói “Giáo dục tổng quát đã suy sụp từ ba trăm năm qua. Nó hầu như bị tàn phá trong những năm cuối 60 và đầu 70. Báo cáo của Quỹ Carnegie cho đó là ‘lãnh vực thảm họa’.” Robert Hutchins cho rằng đại học đã trở thành “công nghiệp quốc hữu hóa” như hệ quả của cuộc cách mạng công nghệ và sự hình thành nhà nước-dân tộc, nation-state.

Theo John S. Mill trong “Diễn văn khai giảng”, Inaugural Address, năm 1867 tại Đại học St. Andrew, “tri thức” (knowledge) và “lương tâm” (conscience) hỗ trợ, xoắn lấy nhau, và đại học cần phải biến sinh viên thành những chiến sĩ hiệu quả hơn trong cuộc chiến đấu vĩ đại không ngừng diễn ra giữa Thượng đế và cái ác (Evil), trong khi John H. Newman trong quyển “Ý niệm của một đại học”, The Idea of a University, cho rằng điểm nhấn của giáo dục đại học không phải là chân lý mới, mà là minh triết cũ, là ‘dạy tri thức nhân văn’ (liberal knowledge), và chính cái đó mới ‘trang bị cho con người để hoàn tất mọi nhiệm vụ được giao phó thắng lợi, và làm chủ mọi vấn đề một cách dễ dàng’; đại học là dành cho những con người toàn diện (generalist), hơn là chuyên viên (specialist); đại học là nơi dạy những ‘tri thức phổ quát’ (universal knowledge); vâng, đại học là một tháp ngà xinh đẹp (C. Kerr).
***
Cuộc canh tranh chất xám vĩ đại của Ben Wildavsky là quyển sách cần phải đọc, must-read, gối đầu giường cho những ai muốn có cánh cửa sổ nhìn ra một cuộc chuyển động thế giới đang diễn ra mạnh mẽ và sẽ ảnh hưởng lên mọi quốc gia, từ những quốc gia phát triển, mới được công nghiệp hóa, đến các quốc gia còn đang trên đường công nghiệp hóa, từ sinh viên đến các bậc phụ huynh, đến các nhà làm chính sách giáo dục. Quyển sách là một “kho tàng tri thức” được cập nhật mới nhất, qui mô, có lý luận phân tích và đúc kết thành nhận thức. Ai muốn xây dựng đại học hiện đại, đại học đẳng cấp quốc tế, ai muốn nhìn vào chiều sâu của lịch sử, sứ mạng của đại học, những vấn đề đại học phải đối mặt tương lai, quan trọng hơn, ai muốn có tầm nhìn, vision, cho nền đại học tương lai của quốc gia mình, đều không nên bỏ qua quyển sách có tính chất ‘khai sáng’ này.

Thông điệp của quyển sách gửi đến người Việt Nam, nhất là các cấp lãnh đạo cao nhất: phải nhanh chóng tiến lên toàn cầu hóa nền đại học của mình, cải cách cơ chế và tổ chức, quản lý, chế độ, kết nối với các đại học hàng đầu thế giới, “quốc tế hóa” hoạt động của đại học, đẩy mạnh Anh ngữ làm ngôn ngữ quen thuộc trong học tập, nghiên cứu và giao dịch, thay đổi văn hóa, chấp nhận văn hóa trọng đãi tài năng, đầu tư mạnh mẽ vào một số ít đại học quốc gia, một số khoa, ngành chủ lực, để trở thành đại học hướng lên đẳng cấp, mà chưa mong đạt tới đẳng cấp, hãy mở các ngành khoa học công nghệ cao, thuê các nhà khoa học và quản lý giỏi thế giới tiếp sức. Đây phải là một cuộc đầu tư lớn gắn liền với sự phát triển của đất nước và quốc phòng, với sự bền vững non sông.

Đại học Yale-NUS - một vùng đất hứa

Ngày 11/4/ 2011, Thủ tướng Lý Hiển Long, cùng với Chủ tịch Đại học Yale, Richard Levin, một “con người toàn cầu hóa” giáo dục đại học, chính thức làm lễ phát động xây dựng Yale-NUS College Singapore cho chương trình cử nhân 4 năm, nhằm góp phần đào tạo một giai tầng lãnh đạo mới của Singapore, với một chương trình giáo dục nhân văn kết hợp văn hóa Đông - Tây ấn tượng, có lẽ là trường hợp đầu tiên tại châu Á. Nếu trước đây Lý Quang Diệu đã “Tây hóa” môi trường sống và kinh doanh của Singapore nhằm thu hút phương Tây đến làm ăn, để khách phương Tây cảm thấy gần gũi, và họ (Singapore) đã thành công tuyệt vời, thì nay, dưới thời Thủ tướng Lý Hiển Long, Singapore sẽ được nâng cấp lên về mặt văn hóa, chuẩn bị cho chất lượng lãnh đạo với tri thức về hai nền văn hóa Đông – Tây. Họ sẽ là một típ người mới của Singapore. Một thử nghiệm hết sức thú vị. Giáo dục cử nhân có lẽ chỉ là giai đoạn một. Yale-NUS có thể có tham vọng đào tạo các lãnh đạo quốc gia như Yale đã và đang làm, đào tạo các tổng thống, thủ tướng, nhà kinh doanh, chính trị gia, học giả…
Văn hóa đã trở thành yếu tố ngày càng quan trọng trong thế giới toàn cầu hóa, khi mà chủ nghĩa và ý thức hệ lần lần biến mất hay trở thành lỗi thời và tai hại . Cái còn lại sẽ là văn hóa. Samuel Huntington cho rằng thế giới đang bước vào giai đoạn của sự “xung đột văn hóa” (civilizational clash) trong đó con người được đặc trưng không phải bởi ý thức hệ, mà bởi văn hóa với sức mạnh (hay nhược điểm của nó). Không hẳn xung đột. Nhưng văn hóa sẽ có giá trị ngày càng trội bật. Singapore không có ý thức hệ đặc biệt ngoài một số nguyên tắc Khổng giáo phù hợp của nhà lập quốc Lý Quang Diệu, cũng không có tự do theo nghĩa các quốc gia phương Tây, nhưng khá cởi mở, một đặc tính cần thiết của sự thành công kinh tế. Một nền văn hóa đóng kín, bị chính trị hóa hay xơ cứng hóa, sẽ khiến đất nước có thể bị loại ra khỏi cuộc chơi. Sự toàn cầu hóa kinh tế và sự sống còn buộc các dân tộc phải xem xét lại toàn bộ văn hóa của mình, cần tái diễn giải những tư tưởng tiềm tàng trong văn hóa, của Khổng Tử, Lão Tử, Phật giáo,.., loại bỏ những cách nhìn lỗi thời gây cản trở và tăng cường các ý tưởng tích cực, phù hợp với sự đòi hỏi của phát triển xã hội… Tôn giáo phải hỗ trợ sự phát triển đất nước, chứ không được làm cản trở, hay quay lưng. Xung quanh, nhiều quốc gia đều có những tôn giáo giống nhau như Khổng, Phật; tuy các văn hóa đó không tự góp phần tạo ra được nền kinh tế hiện đại (như Tin Lành đã làm), nhưng khi dân tộc và giới lãnh đạo thức tỉnh, các quốc gia đó tạo ra các thần kỳ kinh tế.
Đại học Yale-NUS sẽ khai trương vào năm 2013. Một chương mới của Singapore sẽ bắt đầu. Một vùng “đất hứa” sẽ mở ra. Sự giao lưu và đào sâu văn hóa Đông-Tây sẽ là nhân tố tích cực cho việc phát triển đất nước. Giới tinh hoa Singapore muốn có một primacy, sự ưu việt, cả về văn hóa cho đảo quốc họ. Họ là một dân tộc giàu có, nay càng nghĩ thêm phát triển văn hóa ưu việt cho dân tộc họ. Đấy cũng là cách thu hút thêm giới tinh hoa từ phương Tây cho nền kinh tế ngày càng phải cạnh tranh cao. Hai triệu người nước ngoài sinh sống tại Singapore có thể gửi con em học cử nhân tại Yale-NUS với curriculum thú vị mà không phải lo lắng. Đó cũng là một cách ứng phó của lãnh đạo Singapore với trận chiến nhân lực cao của toàn cầu hóa đã được đề cập nhiều trong giới lãnh đạo và học giả Singapore. Đảo quốc nhỏ bé này có nguy cơ đứng trước sự bốc hơi tài năng, bởi đơn giản tài năng của Singapore đang có giá, và đang được truy tìm trên thị trường. Chính phủ phải tìm cách giữ chân tài năng lại, và bổ sung số mất mát bằng cách thu hút tài năng trẻ mới từ khu vực, được đào tạo với chất lượng cao tại chính Singapore.


(Theo Nguyễn Xuân Xanh/ Tia sáng)