- Vợ chồng em kết hôn 2010. Sống chung cùng mẹ chồng. Không có tài sản riêng. Nhưng 2011 gia đình em bán nhà cũ đi và mua nhà mới vẫn đứng tên chủ sở hữu là mẹ chồng em.
TIN BÀI KHÁC
Vậy bây giờ vợ chồng em ly hôn thì em có được chia tài sản là cái nhà đứng tên mẹ chồng em không ạ? Nếu được chia thì em được bao nhiêu? Em có 1 con gái chung với chồng. Nếu em không được chia thì con gái em có phần nào không ạ?
(ảnh minh họa) |
Luật sư tư vấn:
Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về chế độ tài sản chung của vợ chồng như sau:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.”
Theo đó, các tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng, nhưng phải do vợ, chồng tạo ra, không thuộc các trường hợp được thừa kế, tặng cho riêng mới được xác định là tài sản chung của vợ chồng.
Mặt khác, Theo Luật Đất đai 2013, người sử dụng đất hợp pháp là người được nhà nước công nhận quyền sử dụng đất thông qua giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Như vậy, hiện nay khối tài sản nêu trên được xác định là tài sản của bố, mẹ chồng của bạn, chỉ có bố, mẹ chồng của bạn được quyền định đoạt đối với khối tài sản đó.
Trường hợp bạn và chồng ly hôn, chỉ những tài sản chung vợ chồng mới được chia theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cũng quy định đối với trường hợp chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình, theo đó, người vợ vẫn được chia một phần tài sản tương xứng với giá trị đóng góp vào quá trình tạo lập tài sản (Điều 61):
“1. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy định tại Điều 59 của Luật này.”
Về quyền lợi của con gái bạn, Khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. “Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết” (Khoản 1 Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình 2014).
Luật sư Phạm Thị Bích Hảo, Công ty luật TNHH Đức An, Hà Nội
Bạn đọc muốn gửi các
câu hỏi thắc mắc về các vấn đề pháp luật, xin gửi về địa chỉ
banbandoc@vietnamnet.vn (Xin ghi rõ địa chỉ, số điện thoại để chúng tôi
tiện liên hệ)