Mặc dù vẫn còn nhiều thách thức, song di sản văn hóa và phát triển hoàn toàn có thể không mâu thuẫn, loại trừ nhau, mà còn có thể kết hợp với nhau một cách hài hòa và cân bằng để vừa bảo vệ và phát huy tốt vai trò của di sản, vừa phát triển kinh tế - xã hội, sử dụng di sản văn hóa như nguồn lực trong phát triển, tạo nên một xã hội phát triển hài hòa, nhân văn và có bản sắc.

Trong bối cảnh đó, PGS, TS. Nguyễn Thị Phương Châm và TS. Hoàng Cầm, Viện Nghiên cứu văn hóa, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã góp bàn một số giải pháp sau có thể được xem là cần thiết và hiệu quả như sau:

Một là, thay đổi quan điểm, nhận thức về nội hàm khái niệm di sản văn hóa và khái niệm phát triển. Di sản văn hóa cần được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các di sản truyền thống và các loại hình văn hóa do cha ông để lại (như các di tích, hiện vật, các loại hình văn học, nghệ thuật, các nghi lễ, lễ hội, phong tục, tập quán liên quan đến thiên nhiên và vũ trụ, các tri thức và kỹ năng liên quan đến sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, nghề thủ công...) còn tồn tại đến ngày nay, đang được thực hành và có ý nghĩa, giá trị đối với cộng đồng, xã hội. Phát triển cũng cần được hiểu theo nghĩa rộng với sự đa dạng các chiều kích, mô hình cũng như triết lý. Phát triển không chỉ là tăng trưởng kinh tế mà còn bao gồm nhiều khía cạnh văn hóa - xã hội khác, trong đó đặc biệt chú trọng đến sự phát triển vì một xã hội hài hòa, tương trợ, đoàn kết, nhân văn và có bản sắc.

Hai là, khắc phục cách nhìn một chiều trong sử dụng nguồn tài nguyên di sản văn hóa. Khắc phục cách nhìn di sản văn hóa chỉ trong vai trò khai thác, sử dụng với mục đích duy nhất là tăng trưởng kinh tế. Cách nhìn một chiều này rất có thể tạo ra nhiều hệ quả không mong đợi, vì khi di sản văn hóa không đem lại giá trị kinh tế dễ có nguy cơ bị loại bỏ, hoặc thay đổi chức năng sử dụng. Trong khi đó, di sản văn hóa là một nguồn lực có khả năng đóng góp quan trọng vào sự phát triển bao trùm, đa chiều, bình đẳng, nhân văn và bền vững. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ rõ việc bảo vệ, gìn giữ tài nguyên văn hóa cho các thế hệ mai sau.

Ba là, tôn trọng, bảo vệ và phát huy giá trị, tính đa dạng của di sản văn hóa. Di sản văn hóa của Việt Nam luôn có sự đa dạng theo sự đa dạng sinh thái, đa dạng tộc người và đa dạng các biểu đạt văn hóa. Sự đa dạng ấy làm nên sức sống và sự giàu có cho các di sản văn hóa. Vì vậy, cần tiếp tục bảo vệ, phát huy giá trị và tính đa dạng của di sản văn hóa.

Bốn là, tôn trọng và nhận thức đúng về vai trò của chủ thể di sản văn hóa. Điều này đã được khẳng định và nhấn mạnh trong Luật Di sản văn hóa, trong Công ước của UNESCO, Chiến lược phát triển văn hóa,... song việc thực hiện trong thực tế còn chưa được triệt để. Cần trao quyền quyết định, tổ chức và thực hành cho cộng đồng chủ nhân của di sản văn hóa. Các cơ quan hữu quan chỉ nên đóng vai trò tư vấn, định hướng và hỗ trợ quản lý. Song song đó, cần có các hình thức đa dạng để nâng cao năng lực tự quản lý và bảo vệ di sản cho cộng đồng.

Năm là, giảm thiểu vấn đề “hành chính hóa”, “nhà nước hóa” di sản. Cần hạn chế sự can thiệp sâu của Nhà nước, của các nhà quản lý các cấp trong điều hành và thực hành di sản. Khắc phục suy nghĩ cho rằng Nhà nước, ngành văn hóa thực hiện chức năng quản lý di sản có nghĩa di sản văn hóa là của Nhà nước, của ngành văn hóa, là các chủ thể có thẩm quyền cao nhất đối với di sản văn hóa.

Sáu là, giảm thiểu vấn đề thương mại hóa, sân khấu hóa di sản. Cần giảm thiểu tối đa mục đích “thương mại hóa” di sản một cách quá đà để phục vụ du lịch, cũng như các hình thức kinh doanh khác. Trong việc trình diễn di sản, cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng và cố gắng hài hòa, cân đối giữa nhu cầu thị trường và lợi ích của di sản, của cá nhân người thực hành và của cả cộng đồng. 

Bảy là, giảm thiểu các nhóm lợi ích, công bằng trong chia sẻ lợi ích. Trong thực tế, ở nhiều di sản, một số địa phương đã nảy sinh hiện tượng nhóm lợi ích trục lợi từ di sản. Do vậy, cần giảm thiểu các nhóm lợi ích liên quan đến di sản và những tác động gây tổn hại đến sự tồn tại và sức sống của di sản. Cần có những cơ chế bảo đảm việc chia sẻ một cách hợp lý về lợi ích, đặc biệt là lợi ích kinh tế, giữa chủ nhân của các di sản văn hóa với các bên liên quan ở tất cả các di sản.

Tám là, xây dựng chiến lược truyền thông sâu rộng về di sản văn hóa và phát triển. Cần có một chiến lược truyền thông đủ mạnh và bao trùm về các vấn đề liên quan đến di sản văn hóa và phát triển, từ Luật Di sản văn hóa cùng các luật liên quan đến chính sách, đường lối phát triển văn hóa, phát triển tổng thể kinh tế - xã hội; từ cách hiểu về di sản văn hóa và phát triển cho tới các thực hành văn hóa, các kinh nghiệm, mô hình (cả tốt và chưa tốt) nhằm đưa đến nhận thức cập nhật và nhất quán về di sản văn hóa và phát triển. Chiến lược truyền thông này cũng cần bao quát đến đủ các đối tượng từ các nhà lãnh đạo, quản lý và người dân.

Như Quỳnh, Minh Hưng, Anh Duy