Bố tôi 60 tuổi, vừa rồi đi khám ở Bệnh viện Việt Đức (Hà Nội), bác sĩ nói ông bị ung thư tiền liệt tuyến giai đoạn 2. Tôi muốn hỏi, phẫu thuật ung thư tuyến tiền liệt có thể sống thêm được bao nhiêu năm nữa, thưa bác sĩ? Giai đoạn muộn, bệnh có thể có biểu hiện gì và có nhiều người trẻ mắc bệnh này không? (Quang Thành, Nghệ An). 

PGS.TS Đỗ Trường Thành, Trưởng Khoa Phẫu thuật tiết niệu, Bệnh viện Việt Đức, trả lời:

Bệnh lý ung thư về tiết niệu, bàng quang, tuyến tiền liệt có xu hướng tăng hơn so với bệnh lý về tiết niệu thông thường. Tỷ lệ mắc tiền liệt tuyến ở độ tuổi dưới 50 là khoảng 30-40%, hơn 50 tuổi là khoảng 50% và ở tuổi 70 là 70%.

Hiện nay, với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật hiện đại, các bác sĩ có thể phát hiện sớm ung thư tuyến tiền liệt qua xét nghiệm định lượng kháng nguyên tuyến tiền liệt (PSA); siêu âm. Đặc biệt, qua trực tràng phát hiện các nhân ung thư trong tuyến tiền liệt và sinh thiết xác định ung thư; chụp cộng hưởng từ (MRI) phát hiện rõ hơn các nhân ung thư trong tuyến tiền liệt; xạ hình xương phát hiện ung thư tuyến tiền liệt di căn xương.

Với việc xác định chính xác tình trạng của người bệnh, các bác sĩ sẽ đưa ra những phương pháp điều trị và phù hợp để đem lại kết quả cao. Hiện nay, các phương pháp điều trị phẫu thuật và xạ trị đều đạt kết quả sống thêm 10 năm tương đương nhau, trên 80% trường hợp đối với ung thư tiền liệt tuyến giai đoạn khu trú.

Giai đoạn đầu của ung thư tuyến tiền liệt, triệu chứng thường không rõ ràng hoặc có biểu hiện tương tự u phì đại lành tính. Các dấu hiệu cảnh báo như tiểu nhiều lần, tiểu vội, tiểu són. Các triệu chứng chèn ép cũng dễ gặp như tiểu khó, phải rặn, rớt nước tiểu sau cùng, tiểu không hết.

Nếu nặng hơn, bệnh nhân có thể gặp bí tiểu hoàn toàn hay không hoàn toàn, nhiễm khuẩn tiết niệu, tiểu máu.

Nếu không phát hiện sớm, ở giai đoạn muộn, bệnh có các biểu hiện của di căn ung thư như rối loạn tiểu tiện do u xâm lấn vùng cổ bàng quang và xâm lấn lỗ niệu quản; di căn xương gây đau nhức xương. Nếu di căn cột sống có thể gây chèn ép tủy, gây liệt chi, rối loạn cơ tròn; di căn hạch chậu, gây phù chân; xuất tinh ra máu nếu di căn túi tinh.