Hệ thống lại những phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế về giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo trên thế giới, qua đó đúc rút những bài học kinh nghiệm sẽ là việc làm cần thiết.
Phán quyết của PCA ngày 12/7/2016 là một bước ngoặt quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp Biển Đông bằng luật pháp quốc tế. Trước khi khởi kiện, trong hàng chục năm, Philippines đã thương thảo song phương với Trung Quốc, nhưng không đem lại kết quả.
Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trong đó có tranh chấp chủ quyền biển đảo đã xuất hiện ở nhiều khu vực trên phạm vi toàn thế giới. Trước Philippines, giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo bằng biện pháp pháp luật đã xuất hiện từ lâu gắn liền với những phán quyết của Trọng tài quốc tế, Tòa án thường trực Công lý quốc tế và Tòa án Công lý quốc tế và có những phán quyết đã trở thành án lệ kinh điển. Hệ thống lại những phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế về giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo trên thế giới, qua đó đúc rút những bài học kinh nghiệm sẽ là việc làm cần thiết với Việt Nam.
Các nhà hoạt động Philippines vui mừng sau phán quyết của Tòa Trọng tài ở Lahay trong cuộc tuần hành tại Manila ngày 12-7. Ảnh: TTXVN// QĐND |
1. Vụ tranh chấp đảo Palmas giữa Mỹ và Hà Lan
Đảo Palmas là một hòn đảo năm giữa Indonesia[1] và Philippines[2], và xét về khoảng cách địa lý thì nằm gần Philippines hơn Indonesia. Năm 1989, Tây Ban Nha ký Hiệp định nhượng lại Philippines cho Hoa Kỳ, bao gồm cả đảo Palmas. Năm 1906, Hà Lan (lúc đó là quốc gia thực dân cai trị Indonesia) đã khẳng định chủ quyền đối với đảo Palmas. Năm 1928, Hoa Kỳ nhất trí đồng ý giải quyết tranh chấp tại Tòa trọng tài.
Phía Hoa Kỳ đòi chủ quyền bằng lập luận về quyền khám phá và sở hữu liền kề. Còn Hà Lan lập luận mình là quốc gia nắm giữ quyền sở hữu thực tế trong hòa bình, kéo dài liên tục suốt hơn hai thế kỷ mà không gặp phải sự phản đối nào của Nhà nước Tây Ban Nha, đồng thời Hà Lan đã ký hàng loạt các hiệp định với nhà cầm quyền địa phương, từ đó lập nên thuộc địa Hà Lan trên đảo Palmas, kèm theo các hoạt động kinh tế, nghĩa vụ khi có chiến tranh, đối ngoại v.v…
Theo phán quyết, phần thắng thuộc về Hà lan. Theo đó, Thẩm phán phán quyết Tây Ban Nha không thể chuyển nhượng hợp pháp cái mà họ không sở hữu, vì có nắm giữ sở hữu ban đầu khi khám phá đảo, nhưng sau đó không thực thi quyền lực thực sự với đảo. Do đó, đòi hỏi của Hoa Kỳ là yếu ớt, mờ nhạt và không được chấp nhận.
Ngược lại các hoạt động của Hà Lan đối với đảo Palmas là đặc trưng quyền lực của nhà nước, nó diễn ra trong hòa bình bởi không có xung đột nào giữa các quốc gia, nó liên tục trong suốt thời gian dài, mặc dù cũng có những khoảng trống nhất định cụ thể từ năm 1726 đến năm 1825. Như vậy, Palmas là lãnh thổ thuộc sở hữu của Hà Lan.
2. Vụ án tranh chấp Đông Greenland giữa Na Uy và Đan Mạch (giai đoạn 1931 – 1933)
Greenland là lãnh thổ cực bắc trái đất, với 81% diện tích có băng phủ không thể sinh sống. Năm 1931, Na Uy chiếm và tuyên bố chủ quyền phía Đông Greenland không có người ở vì cho rằng đó là đất vô chủ chưa thuộc sở hữu của bất kỳ quốc gia nào.
Đan Mạch đòi chủ quyền với toàn bộ Greenland trong khi chỉ chiếm hữu thực sự một phần diện tích của đảo. Năm 1933, hai nước đồng ý giải quyết tranh chấp chủ quyền tại Pháp viện thường trực quốc tế.
Na Uy lập luận họ đã chiếm Đông Greenland là vùng đất vô chủ chưa thuộc quyền sở hữu của bất kỳ quốc gia nào. Còn Đan Mạch lập luận nước này đã chứng minh chủ quyền đối với toàn bộ đảo không bằng hành vi chiếm hữu cụ thể nào mà bằng một loạt các sắc lệnh, luật thực thi pháp luật, hành chính trải dài khoảng 1.000 năm trước, đặt Greenland dưới sự điều hành của Đan Mạch, quy định lưu thông hàng hải quanh Greenland, quy định việc săn bắt và đánh cá, các hoạt động thám hiểm v.v…, quá trình Đan Mạch thực hiện các hành động đó diễn ra trong hòa bình.
Tòa đã phán quyết, việc xác lập chủ quyền đối với vùng đất không thể sinh sống chỉ cần quốc gia có ý định chiếm hữu và thực hiện một số hoạt động mang tính quyền lực nhà nước là đủ. Do đó, Đan Mạch đã có ý định và thẩm quyền quốc gia đã nêu là đầy đủ để có chủ quyền với toàn bộ Greenland. Chủ quyền của đảo Greenland thuộc về Đan Mạch.
3. Vụ án tranh chấp chủ quyền đảo Clipperton giữa Pháp và Mexico năm 1931
Nằm ở phía Nam Mexico và phía Tây của Guatemala, hòn đảo san hô Clipperton từng được Pháp sử dụng để khai thác phân chim. Trong cuộc nội chiến Mexico năm 1914, cư dân của hòn đảo bị cắt đứt nguồn cung cấp thiết yếu và sau Thế chiến II, hoàn toàn bị bỏ rơi.
Pháp và Mexico nhất trí giải quyết tranh chấp năm 1909, đến năm 1931, trọng tài mới đưa ra phán quyết của vụ án.
Mexico lập luận rằng Tây Ban Nha đã phát hiện ra đảo trước Pháp rất lâu và để lại quyền thừa kế cho Mexico. Còn Pháp cho rằng, Pháp là quốc gia phát hiện ra đảo Clipperton năm 1858 và tuyên bố chủ quyền mà không có quốc gia nào phản đối, và đã tiến hành các hoạt động như khai thác phân chim, cho các tàu chiến đến neo đậu nhằm khẳng định chủ quyền.
Tòa đã phán quyết rằng, đối với lãnh thổ không thể sinh sống được thì không cần thiết có sự hiện diện thường xuyên các hoạt động mang tính quyền lực nhà nước tại đó, tại thời điểm quốc gia chiếm hữu xác lập chủ quyền mà không có tranh chấp thì việc xác lập chủ quyền coi như đã hoàn thành. Chủ quyền của đảo Clipperton thuộc về nước Pháp, đây là lãnh thổ hải ngoại của nước Pháp.
4. Vụ án tranh chấp chủ quyền nhóm đảo Minquies và Ecrehos giữa Anh và Pháp (giai đoạn 1951 – 1953)
Minquies và Ecrehos là hai nhóm đảo nhỏ và đảo đá nằm giữa quần đảo Channels thuộc Jersey của Anh và bờ biển Pháp, trong đó có một số đảo có thể sinh sống, còn lại phần lớn là những đảo đá.
Năm 1951, Anh và Pháp yêu cầu Tòa xem xét bên nào có bằng chứng chủ quyền thuyết phục hơn để có quyền sở hữu với hai nhóm đảo này.
Pháp lập luận nước này có Hiệp ước nghề cá xác định vùng hợp tác bao gồm hai nhóm đảo, ngư dân ở Jersey của Anh bị cấm đánh bắt và hạn chế nhập cảnh vào Ecrehos do hai Chính phủ trao đổi ngoại giao, một phần Ecrehos bị đánh dấu trên hải đồ là ở ngoài vùng nước Jersey và bị coi là đất vô chủ, Pháp đã gửi văn bản tới Anh khẳng định chủ quyền ở Ecrehos.
Minquies là vùng nước phụ cận thuộc đảo Chausey của Pháp, các nhà cầm quyền Pháp trao đổi thư từ liên quan tới đơn xin sử dụng đất của công dân Pháp ở Minquies. Đồng thời Pháp đảm nhận về điện năng và phao cứu sinh cho Minquies mà Anh không phản đối. Một ngôi nhà được dựng lên trên một đảo nhỏ ở Minquies với sự trợ giúp của Pháp, đồng thời Chính phủ Pháp cũng tới thăm Minquies.
Còn Anh đưa ra bằng chứng là Tòa án Jersey đã xét xử tội phạm ở Ecrehos trong vòng một thế kỷ từ năm 1826 đến năm 1921. Chính quyền Jersey đã thu thuế và cho đăng ký hợp đồng nhà đất, đăng ký tàu thuyền, lập trạm hải quan ở Ecrehos, các thủ tục hợp đồng và thuê bất động sản ở Minquies cũng được đăng ký và thanh toán ở Jersey. Đồng thời Anh có sắc lệnh của kho bạc tác động đến Ecrehos và sự viếng thăm của các quan chức Anh tới Ecrehos.
Tòa đã phán quyết rằng hoạt động trao đổi thư từ, đặt phao cứu sinh hay một số hành vi tương tự không được coi là Pháp đã thực thi quyền lực nhà nước đầy đủ với các đảo. Trong khi Anh đã thực thi các chức năng nhà nước về tư pháp, hành chính để quản lý các đảo trong thời gian dài, chứng tỏ Anh đã thực thi quyền lực nhà nước đối với các đảo một cách thực sự và đầy đủ hơn Pháp. Do vậy, chủ quyền hai nhóm đảo thuộc Anh.
5. Vụ tranh chấp đảo Pulau Ligitan và Pulau Sipadan giữa Malaysia và Indonesianăm 2002
Pulau Ligitan và Pulau Sipadan là hai đảo nhỏ không có dân cư sinh sống, giá trị kinh tế không lớn, tranh chấp từ năm 1969 do cả hai quốc gia đều viện dẫn quyền sở hữu từ thời phong kiến (hồi thế kỷ XVI), điều ước quốc tế thời thuộc địa. Do không được Tòa công nhận, hai nước đã viện dẫn chiếm hữu thật sự trước năm 1969 để khẳng định chủ quyền.
Indonesia viện dẫn báo cáo của tàu Hà Lan khẳng định hai đảo thuộc quyền sở hữu của Hà Lan, các cuộc điều tra thủy văn xung quanh hai đảo, cuộc viếng thăm của hải quân, ngư dân có truyền thống đánh bắt xung quanh hai đảo.
Malaysia cho rằng thời thuộc địa, Anh đã thu thập, quản lý, kiểm soát trứng rùa trên đảo từ năm 1914, có pháp lệnh bảo tồn rùa, giải quyết tranh chấp liên quan đến thu thập trứng rùa, cấp phép cho tàu đánh cá xung quanh đảo, xây hải đăng và trợ giúp đường biển cho hai đảo mà Indonesia không phản đối; sau thời thuộc địa, Malaysia đã luôn khẳng định chủ quyền trong quá trình đàm phán với Indonesia về thềm lục địa trong khi Indonesia không quan tâm đòi chủ quyền hai đảo, Malaysia cũng đã khai thác du lịch, giữ an ninh, môi trường cho Sipidan đến hiện tại, năm 1997, hai đảo là khu bảo tồn của Malaysia.
Tòa đã phán quyết rằng Indonesia không có hoạt động lập pháp đối với đảo, đạo luật năm 1960 và bản đồ kèm theo không đề cập đến hai đảo. Chuyến đi của tàu Hà Lan được xác định là hoạt động chung của Hà Lan và Anh để chống cướp biển, việc đánh bắt cá chỉ là hoạt động tư nhân vì không có quy định của Chính phủ, Indonesia đã không thể hiện có ý định thiết lập chủ quyền.
Malaysia đã điều tiết, kiểm soát trứng rùa, thực hiện kế hoạch dự trữ gia cầm cho quốc gia là hoạt động thẩm quyền hành chính nhà nước trên các đảo. Malaysia kế thừa đảo từ Anh và đã tiến hành các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp, diễn ra trong thời gian dài, thể hiện ý định thực thi quyền lực nhà nước đối với hai đảo. Malaysia thắng kiện.
6. Vụ tranh chấp đảo Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks và South Ledge giữa Malaysia và Singapore năm 2008
Tranh chấp này tương tự như tranh chấp đảo Ligitan và Sipadan, nhưng điểm khác biệt là Tòa xác định quyền sở hữu nguyên gốc các đảo thuộc về Malaysia, nhưng Tòa lại trao chủ quyền cho Singapore bởi Singapore đã có một số hoạt động chiếm hữu thật sự như:
Thám hiểm xác tàu đắm trong lãnh hải của đảo, thăm dò các vùng nước xung quanh đảo, có kế hoạch khai hoang các khu vực xung quanh đảo, tất cả các hoạt động này diễn ra trong sự im lặng của Nhà nước phong kiến Malaysia và hiện tại, thậm chí sau tháng 6/2003, thời điểm thỏa thuận đưa vụ việc ra giải quyết tại Tòa có hiệu lực, thì Malaysia mới phản đối những việc Singapore đã làm từ những năm 1980.
Tạm kết
Qua phân tích những án lệ về giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo trên cho thấy: trước năm 1922, việc giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia do Trọng tài quốc tế tiến hành. Từ khoảng năm 1922 đến năm 1945 công việc này do Tòa án thường trực Công lý quốc tế đảm nhiệm, từ năm 1945 đến nay thì thuộc Tòa án Công lý quốc tế. Tính đến nay, các cơ quan tài phán này đã giải quyết khoảng 20 vụ tranh chấp chủ quyền lãnh thổ.
Khi giải quyết các tranh chấp đó, các trọng tài và thẩm phán đều viện dẫn tới nguyên tắc chiếm hữu thật sự để quyết định sẽ trao chủ quyền lãnh thổ cho quốc gia nào.
Có thể thấy rằng, nguyên tắc chiếm hữu thật sự luôn đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trải dài từ cuối thế kỷ 19 cho đến ngày nay. Nó được cơ quan tài phán quốc tế vận dụng một cách thật sự linh hoạt để đưa ra phán quyết chủ quyền với những lãnh thổ có điều kiện địa lý và tự nhiên khác nhau.
Nguyên tắc chiếm hữu thật sự cũng hoạt động trong mối quan hệ tương thích với những quy định khác của luật quốc tế hiện đại để xác định và bảo vệ chủ quyền quốc gia, như: Nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc gia, cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, quy chế của các vùng biển, đảo trong luật biển.
Sỹ Tuấn - Thu Hà