Suốt gần 8 năm sống bên chồng - vua của một nước - là một ước mơ của nhiều thiếu nữ thời bấy giờ, nhưng trong sâu thẳm tâm hồn, Đệ nhất Ân phi Hồ Thị Chỉ vẫn khắc sâu hình bóng vị quân vương anh hùng ái quốc Duy Tân.
TIN BÀI KHÁC
Bất bình 10X 'quằn quại' hát nhạc tình
Miền Bắc tiếp tục nắng nóng đến hết tuần
Rộ làm đẹp với nhau thai cừu
Taxi ở Hà Nội bị phạt tiền tỷ
Miền Bắc tiếp tục nắng nóng đến hết tuần
Rộ làm đẹp với nhau thai cừu
Taxi ở Hà Nội bị phạt tiền tỷ
Hồ Thị Chỉ, con gái áp út của Thượng thư bộ Học Hồ Đắc Trung và bà Châu Thị Ngọc Lương, nổi tiếng là một giai nhân quốc sắc thiên hương, thông minh, học giỏi, đàn hay, thông thạo cả tiếng Pháp lẫn Hán Văn và Việt Ngữ.
Duyên tình với Duy Tân
Đệ nhất Ân phi Hồ Thị Chỉ. |
Theo sử sách, vào khoảng năm 1913, khi vua Duy Tân 14
tuổi, ở ngôi được 6 năm, để nhà vua ở tuổi thiếu niên không vướng vào chính trị
như vua cha Thành Thái, người Pháp cho xây tòa “Thừa lương” ở Cửa Tùng (Quảng
Trị). Vào mùa hè hàng năm, nhà vua ra nghỉ ngơi tắm biển. Cùng tháp tùng nhà vua
trong mỗi lần ra Cửa Tùng có ông Hồ Đắc Trung, Thượng thư bộ Học, cùng 4 người
con: Hồ Đăc Điềm, Hồ Đắc Di, Hồ Thị Chỉ, Hồ Thị Hạnh, để nhà vua có bạn trò
chuyện, nô đùa. Lúc ấy, Hồ Thị Chỉ mới 12 tuổi mà đã có nhiều nét xuân thì, vừa
xinh xắn yểu điệu, vừa hay thẹn thùng e lệ trông rất dễ thương, dễ mến. Ngay từ
phút đầu, nàng đã làm cảm động vị vua trẻ.
"Mỗi buổi sáng, mặt trời vừa
mọc, vua cho đòi đám trẻ đến để cùng đi ra biển bơi lội. Thầy tôi căn dặn chúng
tôi phải giữ lễ vua tôi, không được tự do cười nói như đối với người thường,
nhưng nhà vua lại rất dung dị, gọi các anh tôi bằng anh, gọi tôi bằng em. Ngài
ít nói chuyện với chị tôi. Mỗi khi vui đùa cùng hai anh tôi và tôi, ở những trò
chơi con nít, vua chỉ nhìn chị tôi mà không mời chơi. Khi nào Ngài cũng tỏ ra
vui vẻ, song vẫn nghiêm trang. Chúng tôi rất mến Ngài, nhưng vẫn không dám cười
đùa nhiều, sợ thầy chúng tôi quở. Khi mùa hè gần hết, vua tôi chia tay, chị tôi
khóc. Ngài nói nhỏ với tôi: Dỗ chị đi em, rồi sang năm chúng ta gặp lại”, sư bà
Diệu Không (tức Hồ Thị Hạnh, em ruột Hồ Thị Chỉ) viết trong hồi ký.
Năm
sau gần đến hè, vì Hồ tiểu thư đã lớn nên không được phép cùng các anh ra chơi
Cửa Tùng. Hồ Thị Chỉ thương nhớ vua nên cứ giọt ngắn giọt dài, vậy mà vẫn không
lay chuyển được quyết định của mẫu thân. Còn vua Duy Tân cũng rất buồn nhớ,
luyến tiếc hè năm ngoái... Do vậy, khi vua được hai bà Hoàng Thái Hậu cho phép
nạp phi, ông đã chọn tiểu thư họ Hồ.
Sư bà Diệu Không kể: "Mãn hè một tháng, một hôm có thị vệ đến xin ảnh chị tôi đem vào nội cho hai ngài Thái hậu xem mặt. Một tuần sau, hai Ngài cho đòi thầy mạ tôi vào chầu và sau đó, tôi thấy kiệu vua đệ ra nhà tôi một đôi bông tai và một đôi vòng vàng cho chị tôi, thầy mạ tôi quỳ lễ bái lãnh... Đó là lễ hỏi của vua dành cho chị tôi. Chị tôi cũng ra lạy tạ ân vua hạ cố". Thế nhưng, trớ trêu là cuối năm 1915, vua Duy Tân đã mời Thượng thư Hồ Đắc Trung gặp riêng và nói lời rút lui việc hôn nhân với Hồ Thị Chỉ mà không cho biết lý do. Đầu năm 1916, lễ nạp phi diễn ra, người ngồi kiệu hoa vào cung là tiểu thư Mai Thị Vàng, con gái ông Mai Khắc Đôn, thầy dạy chữ Hán cho vua Duy Tân.
Sư bà Diệu Không kể: "Mãn hè một tháng, một hôm có thị vệ đến xin ảnh chị tôi đem vào nội cho hai ngài Thái hậu xem mặt. Một tuần sau, hai Ngài cho đòi thầy mạ tôi vào chầu và sau đó, tôi thấy kiệu vua đệ ra nhà tôi một đôi bông tai và một đôi vòng vàng cho chị tôi, thầy mạ tôi quỳ lễ bái lãnh... Đó là lễ hỏi của vua dành cho chị tôi. Chị tôi cũng ra lạy tạ ân vua hạ cố". Thế nhưng, trớ trêu là cuối năm 1915, vua Duy Tân đã mời Thượng thư Hồ Đắc Trung gặp riêng và nói lời rút lui việc hôn nhân với Hồ Thị Chỉ mà không cho biết lý do. Đầu năm 1916, lễ nạp phi diễn ra, người ngồi kiệu hoa vào cung là tiểu thư Mai Thị Vàng, con gái ông Mai Khắc Đôn, thầy dạy chữ Hán cho vua Duy Tân.
Gia đình Thượng thư Hồ Đắc Trung, nhất là Hồ Thị Chỉ đã rất thất vọng và buồn chán. Đến tháng 5/1916, vua Duy Tân bị Pháp bắt vì tham dự cuộc khởi nghĩa vũ trang do Việt Nam Quang phục hội lãnh đạo. Từ biến cố này, nguyên nhân của việc nhà vua từ hôn với Hồ Thị Chỉ đã được sáng tỏ. Theo lời khai của nhà vua với người Pháp, sở dĩ ông thay đổi ý định kết hôn với con gái Thượng thư Hồ Đắc Trung vì lúc bấy giờ, ông đã nhận lời tham dự cuộc khởi nghĩa vũ trang do Quang Phục hội lãnh đạo, nên không muốn người yêu là Hồ Thị Chỉ và gia đình đông con của Thượng thư Hồ Đắc Trung phải gánh chịu liên lụy.
Lại nói, ban đầu, người Pháp cũng đặt Hồ Đắc Trung vào vị trí số người có nghi vấn liên quan đến cuộc khởi nghĩa bất thành, nên nhờ lời khai đó, ông được công nhận là vô can. Tiểu thư Hồ Thị Chỉ càng thêm cảm phục quý mến tình cảm của Duy Tân và nguyện một đời sống chết vì vua. Thế nhưng, ở đời mấy ai học hết chữ "ngờ"...
"Nợ" vợ chồng với Khải Định
"Năm 1917, Khải Định
ngự giá lễ đặt viên đá đầu tiên xây trường Đồng Khánh. Vua thấy một nữ sinh xinh
đẹp, khoan thai kính cẩn dâng lên ngài một chiếc kéo mới tinh đặt trên một cái
khay phủ gấm điều. Hoàng thượng nhận chiếc kéo để cắt giải lụa hồng, buộc ngang
cổng trường, trước khi tiến vào sân hành lễ. Thế rồi, cô thiếu nữ sau này được
đưa vào nội cung làm hoàng phi", sử sách chép.
Hồi ký của sư bà Diệu Không ghi lại cuộc gặp ngỏ lời cầu hôn với Hồ Thị Chỉ giữa vua Khải Định và Thượng thư Hồ Đắc Trung: "Tôi cần một người vợ nói tiếng Pháp giỏi để làm các việc cơ mật, mà người đó là con gái Thầy - ông gia hụt của Duy Tân. Trước đây, tôi đã có người vợ con cụ Trương Như Cương nhưng bà ấy đã xin về ba năm nay rồi. Tôi sẽ cưới con Thầy làm Hoàng phi vợ chính. Thật ra, tôi cũng đã có một người hầu và một con mới 4 tuổi, nó sẽ là con của bà Hoàng phi”.
Đối với ông Hồ Đắc Trung, đây là một tin sét đánh vì ông biết con gái ông rất nặng tình với cựu hoàng Duy Tân, không dễ gì chấp nhận làm vợ Khải Định. Và đúng như thế, khi nghe cha nói lại ý định của vua, cô Hồ Thị Chỉ đã vừa khóc vừa thưa: "Con xin nguyện ở với cha mẹ trọn đời không lấy ai nữa hết!".
Ông bà Hồ Đắc Trung, anh cả Hồ Đắc Khải, em gái Hồ Thị Hạnh đã họp bàn tìm cách thuyết phục Hồ Thị Chỉ vì họ thừa biết, tuy Khải Định mới ngỏ ý nhưng đây đã là "khẩu dụ" của nhà vua, nếu không nghe theo thì cả nhà không tránh khỏi tội khi quân, kháng chỉ, tai họa khôn lường. Họ đã nghĩ đến chuyện hai cha con Hồ Đắc Trung, Hồ Đắc Khải xin từ quan về làm ruộng.
Liền mấy ngày đêm, cả nhà ra sức khuyên giải Hồ Thị Chỉ. Cô em Hồ Thị Hạnh đêm nằm bên chị rỉ rả thuyết phục: "Thầy và anh Khải đều là văn nhơn, nay về làm ruộng sao được. Huống nữa còn 4 anh em đang học ở Hà Nội, vậy ai là người nuôi các anh nên tương lai? Nếu chị mà không biết hy sinh thì chị còn thua nàng Kiều đã bán mình chuộc cha. Còn Ngài (Duy Tân) đã vị quốc gia, vậy sao chị không vị gia đình như Ngài đã hy sinh vì nước?". Cuối cùng, sáng hôm sau, đôi mắt còn sưng húp, nét mặt buồn phiền, Hồ Thị Chỉ sang phòng phụ thân và thưa: "con xin nghe lời Thầy và anh!".
Hồi ký của sư bà Diệu Không ghi lại cuộc gặp ngỏ lời cầu hôn với Hồ Thị Chỉ giữa vua Khải Định và Thượng thư Hồ Đắc Trung: "Tôi cần một người vợ nói tiếng Pháp giỏi để làm các việc cơ mật, mà người đó là con gái Thầy - ông gia hụt của Duy Tân. Trước đây, tôi đã có người vợ con cụ Trương Như Cương nhưng bà ấy đã xin về ba năm nay rồi. Tôi sẽ cưới con Thầy làm Hoàng phi vợ chính. Thật ra, tôi cũng đã có một người hầu và một con mới 4 tuổi, nó sẽ là con của bà Hoàng phi”.
Đối với ông Hồ Đắc Trung, đây là một tin sét đánh vì ông biết con gái ông rất nặng tình với cựu hoàng Duy Tân, không dễ gì chấp nhận làm vợ Khải Định. Và đúng như thế, khi nghe cha nói lại ý định của vua, cô Hồ Thị Chỉ đã vừa khóc vừa thưa: "Con xin nguyện ở với cha mẹ trọn đời không lấy ai nữa hết!".
Ông bà Hồ Đắc Trung, anh cả Hồ Đắc Khải, em gái Hồ Thị Hạnh đã họp bàn tìm cách thuyết phục Hồ Thị Chỉ vì họ thừa biết, tuy Khải Định mới ngỏ ý nhưng đây đã là "khẩu dụ" của nhà vua, nếu không nghe theo thì cả nhà không tránh khỏi tội khi quân, kháng chỉ, tai họa khôn lường. Họ đã nghĩ đến chuyện hai cha con Hồ Đắc Trung, Hồ Đắc Khải xin từ quan về làm ruộng.
Liền mấy ngày đêm, cả nhà ra sức khuyên giải Hồ Thị Chỉ. Cô em Hồ Thị Hạnh đêm nằm bên chị rỉ rả thuyết phục: "Thầy và anh Khải đều là văn nhơn, nay về làm ruộng sao được. Huống nữa còn 4 anh em đang học ở Hà Nội, vậy ai là người nuôi các anh nên tương lai? Nếu chị mà không biết hy sinh thì chị còn thua nàng Kiều đã bán mình chuộc cha. Còn Ngài (Duy Tân) đã vị quốc gia, vậy sao chị không vị gia đình như Ngài đã hy sinh vì nước?". Cuối cùng, sáng hôm sau, đôi mắt còn sưng húp, nét mặt buồn phiền, Hồ Thị Chỉ sang phòng phụ thân và thưa: "con xin nghe lời Thầy và anh!".
Lễ nạp phi đã được tiến hành. Khi
đó, Hồ Thị Chỉ mới 15 tuổi. Khải Định tôn trọng lời hứa trước đây phong Hồ Thị
Chỉ làm Đệ nhất Ân Phi và rất sủng ái bà. Dưới triều Khải Định, thường thấy bà
Ân phi, với tư cách là Hoàng hậu, xuất hiện bên cạnh trong những lần tiếp tân,
yến tiệc khoản đãi quan chức người Pháp và người nước ngoài khác. Bà Ân phi nổi
bật với vẻ ngoài xinh đẹp, thông thái vừa có kiến thức phương Đông lại am hiểu
văn hóa, nếp sống phương Tây, rất được các vị khách nước ngoài khen
ngợi.
"Tuy được gả cho vua mà tình người con gái vẫn còn quyến luyến vua cũ không nguôi, còn thầy tôi làm quốc trượng... mà lòng vẫn buồn nên thường lui tới chùa Trúc Lâm để tâm sự với hòa thượng Giác Tiêu cho vơi bớt nỗi sầu thế sự”, sư bà Diệu Không cho biết.
Đúng phận má hồng!
"Tuy được gả cho vua mà tình người con gái vẫn còn quyến luyến vua cũ không nguôi, còn thầy tôi làm quốc trượng... mà lòng vẫn buồn nên thường lui tới chùa Trúc Lâm để tâm sự với hòa thượng Giác Tiêu cho vơi bớt nỗi sầu thế sự”, sư bà Diệu Không cho biết.
Đúng phận má hồng!
Sau ngày Khải Định
qua đời (1925), bà Ân phi không có được mụn con với nhà vua. Vĩnh Thụy lên
nối ngôi đặt niên hiệu Bảo Đại. Vua Bảo Đại lập lại các danh hiệu Hoàng thái
hậu, Hoàng hậu, Đông cung thái tử… và thay đổi cả nghi thức nội cung, chỉ phong
cho mẹ đẻ (bà Hoàng Thị Cúc) chức Đôn Huy Hoàng Thái hậu, tức bà Từ Cung có
quyền thế bậc nhất trong nội cung. Ân phi Hồ Thị Chỉ (mẹ đích) không được phong
Hoàng Thái hậu, không sống trong nội cung, mà sống ở Cung An Định.
Mới ngoài 20 tuổi, một giai nhân quốc sắc thiên hương một thời, đã trãi qua cuộc đời thăng trầm cay đắng, bà Ân phi phiền muộn, mắc phải bệnh trầm cảm nặng, trở thành bệnh điên không một ngự y, một bác sĩ Tây y nào chữa khỏi; đáng chú ý là ông anh ruột là Hồ Đắc Di một bác sĩ giỏi, tốt nghiệp ở Pháp về nước (sau này là hiệu trưởng trường Đại học Y khoa Hà nội), rất thương em gái, cũng bất lực.
Năm 1985, Đệ nhất Ân phi Hồ Thị Huệ qua đời vì suy kiệt và tiêu chảy cấp tại bệnh viện Trung Ương Huế, lúc đó 83 tuổi. Bà được an táng dưới chân mộ của cha mẹ trong nghĩa trang của gia đình Hồ Đắc trên một ngọn đồi thông tại xã Dương Xuân Thượng, TP Huế, gần chùa Hồng Ân do ni trưởng Diệu Không sáng lập và trụ trì.
Mới ngoài 20 tuổi, một giai nhân quốc sắc thiên hương một thời, đã trãi qua cuộc đời thăng trầm cay đắng, bà Ân phi phiền muộn, mắc phải bệnh trầm cảm nặng, trở thành bệnh điên không một ngự y, một bác sĩ Tây y nào chữa khỏi; đáng chú ý là ông anh ruột là Hồ Đắc Di một bác sĩ giỏi, tốt nghiệp ở Pháp về nước (sau này là hiệu trưởng trường Đại học Y khoa Hà nội), rất thương em gái, cũng bất lực.
Năm 1985, Đệ nhất Ân phi Hồ Thị Huệ qua đời vì suy kiệt và tiêu chảy cấp tại bệnh viện Trung Ương Huế, lúc đó 83 tuổi. Bà được an táng dưới chân mộ của cha mẹ trong nghĩa trang của gia đình Hồ Đắc trên một ngọn đồi thông tại xã Dương Xuân Thượng, TP Huế, gần chùa Hồng Ân do ni trưởng Diệu Không sáng lập và trụ trì.
(Theo Đất Việt)