Trân trọng giới thiệu toàn văn Bài phát biểu khai mạc hội nghị của Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Bùi Thị Quỳnh Vân.
Kính thưa các đồng chí trong Tỉnh ủy!
Kính thưa các đồng chí tham dự Hội nghị!
Thực hiện Chương trình làm việc toàn khóa và Chương trình công tác của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh năm 2021, hôm nay, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XX tổ chức Hội nghị lần thứ 5 để cho ý kiến về: (1) Dự thảo Báo cáo sơ kết việc thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy khóa XIX; dự thảo Kết luận của Tỉnh ủy khóa XX về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững; (2) Dự thảo Báo cáo tổng kết việc thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy khóa XIX về phát triển dịch vụ, du lịch; dự thảo Nghị quyết của Tỉnh ủy khóa XX về đẩy mạnh phát triển du lịch; (3) Dự thảo Báo cáo tổng kết việc thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy khóa XIX về cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính; dự thảo Nghị quyết của Tỉnh ủy khóa XX về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao thứ hạng các chỉ số cải cách hành chính, hiệu quả quản trị và hành chính công, năng lực cạnh tranh cấp tỉnh; (4) Báo cáo công tác tài chính của Đảng bộ tỉnh năm 2020; (5) Báo cáo về những công việc Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo giải quyết giữa 2 kỳ Hội nghị Tỉnh ủy (6) Quy chế làm việc của UBKT. Đây là Hội nghị có nhiều nội dung quan trọng.
Theo Quy chế làm việc, Văn phòng Tỉnh ủy đã gửi các tài liệu để các đồng chí nghiên cứu trước và chuẩn bị ý kiến thảo luận tại Hội nghị. Trước hết, thay mặt chủ trì Hội nghị Tỉnh ủy, tôi xin phát biểu một số nội dung có tính chất gợi mở, lưu ý, nhấn mạnh thêm, mong các đồng chí quan tâm trong quá trình thảo luận, xem xét, quyết định.
Kính thưa các đồng chí!
1. Về tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 19/10/2016 của Tỉnh ủy khóa XIX về phát triển dịch vụ, du lịch và thông qua Nghị quyết của Tỉnh ủy khóa XX về đẩy mạnh phát triển du lịch.
Tỉnh ủy khóa XIX đã xác định phát triển dịch vụ, du lịch là 1 trong 3 nhiệm vụ trọng tâm và đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 19/10/2016. Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết số 04, nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, các tầng lớp nhân dân về phát triển dịch vụ, du lịch được nâng lên. Dịch vụ phát triển đúng định hướng, tỷ trọng ngày càng tăng trong cơ cấu kinh tế; nhiều dịch vụ có mức tăng trưởng khá. Dịch vụ vận tải phát triển nhanh. Dịch vụ bưu chính, viễn thông phát triển rộng khắp đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Dịch vụ phân phối, thương mại phát triển mạnh; hệ thống chợ truyền thống được đầu tư, nâng cấp; một số siêu thị, trung tâm thương mại được đầu tư, đi vào hoạt động, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân. Du lịch biển, đảo có bước phát triển. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật du lịch được quan tâm đầu tư phát triển; bước đầu hình thành một số khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, tạo nên diện mạo mới trong phát triển du lịch của tỉnh, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Tuy nhiên, nhìn sang các tỉnh, thành phố lân cận, chúng ta có thể thấy rằng bên cạnh những kết quả đạt được, ngành dịch vụ, du lịch của tỉnh ta phát triển chậm, chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh. Dịch vụ có giá trị gia tăng cao, dịch vụ hỗ trợ trực tiếp cho phát triển công nghiệp và phục vụ dân sinh còn hạn chế. Dịch vụ cảng biển, vận tải biển chưa phát triển nhiều, chưa hiện đại, chi phí cao. Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn nhiều bất cập; hạ tầng kết nối và cơ sở vật chất phục vụ phát triển dịch vụ, du lịch thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu; một số dự án đăng ký đầu tư nhưng triển khai chậm, kéo dài nhưng chưa kịp thời giải quyết, gây lãng phí tài nguyên, hiệu quả đầu tư. Các loại hình du lịch chậm phát triển, thiếu các sản phẩm du lịch khác biệt và các dịch vụ đẳng cấp để giữ chân du khách, khả năng cạnh tranh chưa cao; doanh thu từ du lịch đạt thấp và chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Công tác tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch còn hạn chế; vai trò của cộng đồng trong phát triển du lịch chưa được phát huy đúng mức; sự liên kết, hợp tác phát triển du lịch giữa các địa phương trong tỉnh và giữa tỉnh với các tỉnh, thành phố chưa cao,…
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030 trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng có xác định nhiệm vụ: “Đẩy mạnh cơ cấu lại ngành du lịch, bảo đảm tính chuyên nghiệp, hiện đại và phát triển đồng bộ, bền vững và hội nhập quốc tế; chú trọng liên kết giữa ngành du lịch với các ngành, lĩnh vực khác trong chuỗi giá trị hình thành nên các sản phẩm du lịch để du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn”.
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX cũng đã xác định 1 trong 4 nhiệm vụ trọng tâm là: “Đẩy mạnh phát triển du lịch, từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn”. Đồng thời, xác định một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu như: Tích cực thu hút đầu tư, nhất là các nhà đầu tư chiến lược đầu tư các khu, điểm du lịch quy mô lớn, hiện đại. Tạo điều kiện thuận lợi để khai thác có hiệu quả các khu, điểm du lịch đã được đầu tư. Phát triển du lịch biển, đảo trở thành loại hình du lịch chủ đạo, lấy Lý Sơn làm hạt nhân. Đẩy mạnh phát triển du lịch văn hóa, lịch sử, tâm linh trên cơ sở nâng tầm giá trị di sản văn hóa Sa Huỳnh, Trường Lũy Quảng Ngãi, các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể. Kêu gọi đầu tư phát triển du lịch sinh thái ở núi Cà Đam, Gành Yến, suối nước nóng Thạch Bích,...
Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 ảnh hưởng nặng nề đến kinh tế toàn cầu, trong đó có lĩnh vực du lịch, nhiệm vụ phát triển du lịch của tỉnh ta gặp nhiều thách thức lớn. Do vậy, đòi hỏi chúng ta phải có cách nghĩ, cách làm mới, để phát huy những tiềm năng hiện có, thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong xã hội để đầu tư, phát triển du lịch.
Do vậy, trên cơ sở nội dung các dự thảo Báo cáo, Nghị quyết, đề nghị các đồng chí Tỉnh ủy cần tập trung thảo luận, phân tích kỹ kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân của hạn chế, nhất là những nguyên nhân chủ quan để từ đó đề ra các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể, sát với thực tiễn, tạo chuyển biến mạnh mẽ về phát triển du lịch trong những năm tới.
2. Về tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 05 của Tỉnh ủy khóa XIX về cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính và thông qua Nghị quyết của Tỉnh ủy khóa XX về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao thứ hạng các chỉ số cải cách hành chính, hiệu quả quản trị và hành chính công, năng lực cạnh tranh cấp tỉnh.
5 năm qua, việc thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy khóa XIX về cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính đạt được một số kết quả bước đầu. Công tác kiểm soát, ban hành mới, rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính được thực hiện thường xuyên. Đã mở rộng hình thức, phạm vi công khai, minh bạch hóa thủ tục hành chính và các thông tin quản lý nhà nước, tập trung cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh. Việc giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa tiếp tục được duy trì, mở rộng và nâng cao chất lượng. Tổ chức bộ máy từng bước được sắp xếp, kiện toàn theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, giảm cấp trung gian, giảm số lượng cấp phó. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được cơ cấu lại, chuẩn hóa theo ngạch, chức danh nghề nghiệp, vị trí việc làm. Việc thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị đạt một số kết quả tích cực. Các dịch vụ sự nghiệp công từng bước được đổi mới, nâng cao chất lượng. Ứng dụng công nghệ thông trong hoạt động của cơ quan hành chính được triển khai đồng bộ, từng bước phấn đấu theo hướng "chính quyền điện tử".
Tuy nhiên, phải thẳng thắn thừa nhận rằng chúng ta còn rất nhiều hạn chế trong nhiệm kỳ qua, những nỗ lực của chúng ta là chưa theo kịp yêu cầu phát triển và sự chuyển mình của các địa phương trong cả nước. Minh chứng là các chỉ số: Cải cách hành chính (PAR Index); Hiệu quả quản trị và hành chính công (PAPI); Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của tỉnh ta vẫn đứng ở thứ hạng thấp so với các tỉnh, thành phố trong cả nước, thậm chí Chỉ số Cải cách hành chính (PAR Index) của tỉnh đứng thấp nhất cả nước.
Điều đó cho thấy thực trạng cải cách hành chính của tỉnh ta còn rất nhiều điểm yếu mang tính nội tại. Trong đó, có thể kể đến một số hạn chế lớn sau: Về con người, phải nghiêm túc nhìn nhận rằng năng lực, thái độ, ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức còn rất hạn chế. Năng lực chuyên môn, khả năng áp dụng pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu công tác. Một số cán bộ, công chức, viên chức không làm hết trách nhiệm, có hành vi nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp. Về tổ chức bộ máy, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nói chung và của nhiều cơ quan, đơn vị nói riêng còn thấp. Sự phân công, phối hợp giữa các các cấp, các cơ quan còn chưa rõ ràng, chưa chặt chẽ. Kỷ luật, kỷ cương hành chính ở một số cơ quan, đơn vị chưa được thực hiện nghiêm. Quy định thủ tục hành chính ở một số lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp. Việc thực hiện, giải quyết thủ tục hành chính ở một số cơ quan, địa phương còn chậm trễ. Tính liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính chưa cao. Cơ chế một cửa ở một số cơ quan, đơn vị còn mang tính hình thức. Việc xây dựng, hình thành và phát triển cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quản lý, điều hành chưa đồng bộ, thống nhất. Việc cung cấp và sử dụng các dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 còn rất ít. Chất lượng, hiệu quả hoạt động và tự chủ tài chính của một số đơn vị sự nghiệp công lập còn thấp.
Công tác cải cách hành chính của tỉnh đạt hiệu quả thấp do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là do chúng ta chưa có giải pháp hiệu quả để khắc phục những tồn tại, hạn chế đã được chỉ ra ở nhiệm kỳ trước, tinh thần trách nhiệm, đạo đức công vụ của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa cao; việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành và tác nghiệp còn chưa đáp ứng yêu cầu, ngang tầm nhiệm vụ.
Kính thưa các đồng chí!
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX đã xác định “Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao thứ hạng các chỉ số cải cách hành chính, hiệu quả quản trị và hành chính công, năng lực cạnh tranh cấp tỉnh” là 1 trong 4 nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ 2020 – 2025. Điều đó đã tỏ rõ quyết tâm chính trị của toàn đảng bộ ta đối với nhiệm vụ cải cách hành chính. Trong đó, đã xác định một số số nhiệm vụ, giải pháp như: Sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước gắn với tinh giản biên chế. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan nhà nước; thúc đẩy việc xử lý công việc trên môi trường mạng, hướng tới cơ quan nhà nước không giấy tờ, xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền bảo đảm phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn, đề cao vai trò chủ động, tinh thần trách nhiệm, nâng cao năng lực của từng cấp, từng ngành gắn với kiểm soát quyền lực và trách nhiệm giải trình của người đứng đầu chính quyền các cấp, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị. Xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương, công khai, minh bạch. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả cơ chế một cửa, một cửa liên thông; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh và các trung tâm hành chính công cấp huyện; mở rộng cung cấp dịch vụ công trực tuyến. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ.
Thực tiễn vừa qua cho thấy các địa phương có tốc độ phát triển nhanh đều thực hiện cải cách hành chính rất tốt. Điểm chung giữa các địa phương này là: sự nỗ lực, quyết liệt trong lãnh đạo, điều hành; sự đồng tâm vào cuộc của cả hệ thống chính trị và người dân; trong đó, sự đổi mới, sáng tạo, gương mẫu của người đứng đầu ở các địa phương, cơ quan, đơn vị là nguồn cảm hứng quan trọng.
Trên cơ sở nội dung các dự thảo Báo cáo, Nghị quyết, tôi đề nghị các đồng chí Tỉnh ủy và đại biểu dành nhiều thời gian để tập trung thảo luận sâu các hạn chế và nguyên nhân của hạn chế; để từ đó đề ra quyết tâm, xác định nhiệm vụ, giải pháp thật cụ thể để tạo chuyển biến rõ rệt về cải cách hành chính trong những năm tới.
3. Về sơ kết việc thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 19/10/2016 của Tỉnh ủy khóa XIX và thông qua Kết luận của Tỉnh ủy khóa XX về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững.
Từ quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI, Tỉnh ủy khóa XIX đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 19/10/2016 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững.
Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết số 03, văn hóa, con người Quảng Ngãi tiếp tục được xây dựng và phát triển, từng bước đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững. Nhận thức, ý thức trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi có chuyển biến tích cực. Xây dựng, phát triển văn hóa và con người đã ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau. Văn hóa dần trở thành một trong những nguồn lực quan trọng trong tiến trình phát triển và hội nhập quốc tế của tỉnh. Đời sống văn hóa của nhân dân được cải thiện. Các hoạt động văn hóa, giao lưu văn hóa giữa các địa phương trong và ngoài tỉnh được tổ chức ngày càng đa dạng, phong phú, chất lượng, hiệu quả được nâng lên. Việc quảng bá hình ảnh, con người Quảng Ngãi thông qua hoạt động xúc tiến đầu tư và trên các nền tảng truyền thông, mạng xã hội,… được tăng cường. Nhiều di sản, giá trị văn hóa tốt đẹp của các cộng đồng dân cư trong tỉnh được bảo tồn và phát huy. Các thiết chế văn hóa được bố trí nguồn lực đầu tư phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Nếp sống văn hóa, văn minh với các giá trị văn hóa như: tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, hợp tác, “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, ý thức tuân thủ pháp luật, tính năng động, sáng tạo, khát khao cống hiến vì cộng đồng, đức tính tự trọng, tự chủ, khoan dung, thân thiện từng bước được củng cố, lan tỏa trong cộng đồng; khắc phục dần tính khắc khe, hẹp hòi, cố chấp, cứng nhắc, thụ động. Tầm vóc, thể lực và trình độ dân trí của người dân Quảng Ngãi được nâng lên.
Tuy nhiên, công tác xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi có một số hạn chế. Phát triển văn hóa chưa đồng bộ với phát triển kinh tế. Các thiết chế văn hóa chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân. Chưa giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển trong quản lý văn hóa. Một số di tích lịch sử, văn hóa xuống cấp chưa được trùng tu, sửa chữa và phát huy giá trị. Môi trường văn hóa có một số mặt thiếu lành mạnh. Hoạt động văn hóa, nghệ thuật chưa thực sự phát huy được vai trò bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của con người, nhất là đối với thế hệ trẻ; tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật còn ít. Tính ích kỷ, hẹp hòi, thiếu tự chủ còn tồn tại trong một bộ phận người dân; tinh thần trách nhiệm, cống hiến, sáng tạo vì cộng đồng chưa được phát huy mạnh mẽ. Lối sống vô cảm, biệt lập của một bộ phận người dân, nhất là ở khu vực đô thị còn tồn tại; lối sống, hành vi ứng xử của một bộ phận cán bộ, đảng viên và người dân còn thiếu chuẩn mực, chưa văn minh. Mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong xây dựng và phát triển toàn diện con người chưa chặt chẽ. Việc thực hiện các quy định về nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, sinh hoạt cộng đồng ở một số nơi chưa nghiêm. Các giá trị văn hóa ở các địa phương ven biển, hải đảo, của đồng bào các dân tộc thiểu số ở các huyện miền núi chưa được phát huy đúng mức. Tiếng nói, phong tục, tập quán trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số có nguy cơ mai một. Khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng chậm được rút ngắn.
Kính thưa các đồng chí!
Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi là nhiệm vụ có tính chiến lược, lâu dài. Tại Đại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII vừa qua, Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần”; đồng thời xác định 1 trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030 là “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và diều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trọng tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”.
Quan điểm phát triển trong Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX cũng đã khẳng định: Lấy giá trị văn hóa, con người làm nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững; Xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, văn minh. Con người ứng xử tôn trọng với nhau và với môi trường tự nhiên.
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX cũng đã xác định một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu như: Xây dựng môi trường văn hóa và đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh trong mỗi gia đình, thôn, tổ dân phố, cơ quan, đơn vị. Bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể. Đầu tư một số công trình văn hóa tiêu biểu, nâng cao hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa, thể thao ở cơ sở. Nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng con người Quảng Ngãi phát triển toàn diện cả về đức, trí, thể, mỹ, có tính hợp tác cao, khẳng khái, khoan dung, thân thiện, năng động, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế. Thực hiện tốt các nhiệm vụ này sẽ góp phần rất quan trọng cho sự phát triển của tỉnh.
Có thể khẳng định rằng, con người là yếu tố quyết định việc thực hiện thắng lợi các nội dung bàn tại Hội nghị này (phát triển du lịch; cải cách hành chính; xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi). Do vậy, trên cơ sở dự thảo Báo cáo và dự thảo Kết luận về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi được trình bày tại Hội nghị này, đề nghị các đồng chí trong Tỉnh ủy tập trung thảo luận, phân tích những kết quả đạt được, những mặt còn hạn chế và nguyên nhân để xác định những mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm về xây dựng và phát triển văn hóa con người Quảng Ngãi trong thời gian đến, tạo tiền đề quan trọng thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị đề ra, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhanh và bền vững.
4. Thực hiện theo Quy chế làm việc của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy, tại Hội nghị này, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã gửi đến các đồng chí Báo cáo công tác tài chính của Đảng bộ tỉnh năm 2020, Báo cáo về những công việc Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo giải quyết giữa 2 kỳ Hội nghị Tỉnh ủy.
5. Quy chế làm việc của UBKT Tỉnh ủy nhiệm kỳ 2020-2025.
Đề nghị các đồng chí Tỉnh ủy nghiên cứu và cho ý kiến.
Kính thưa các đồng chí!
Nội dung chương trình của Hội nghị Tỉnh ủy lần này có nhiều vấn đề quan trọng. Trong đó, có thảo luận và thông qua các nghị quyết, kết luận chuyên đề của Tỉnh ủy khóa XX. Các nghị quyết, kết luận chuyên đề này có ý nghĩa quan trọng trong nhiệm kỳ 2020 – 2025 mà còn có tính tháo gỡ điểm nghẽn, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững của tỉnh. Do vậy, tôi đề nghị các đồng chí phát huy cao tinh thần trách nhiệm, tập trung nghiên cứu, thảo luận thẳng thắn, đóng góp nhiều ý kiến có chất lượng để hoàn thiện các báo cáo, kết luận, nghị quyết và quyết định các vấn đề quan trọng.
Với tinh thần đó, tôi xin tuyên bố khai mạc Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XX.
Chúc Hội nghị thành công tốt đẹp!
Xin trân trọng cảm ơn!