Tại các nước phương Tây, ung thư vú nam chiếm khoảng < 1% trong tất cả các bệnh lý ở vú và < 1% trong tất cả các loại ung thư ở nam. Các nghiên cứu dịch tễ gần đây cho thấy tần suất ung thư vú nam đang gia tăng đến 1,1% mỗi năm. Tuy nhiên, bệnh lý này thường được chẩn đoán trễ ở nam, ngược lại so với nữ, do tần suất hiếm gặp cũng như thiếu nhận thức ở nam giới, đưa đến bệnh phát hiện ở giai đoạn muộn.

Trong năm 2018, 7 trường hợp ung thư vú nam đã được khảo sát tại BV Ung bướu TP.HCM. Trung bình thời gian có triệu chứng là khoảng 17 tháng. 100% bệnh nhân đến khám vì có khối bướu ở vú.

Cũng như phụ nữ, xuất độ ung thư vú tăng theo tuổi, và nam có khuynh hướng gần 5 - 10 năm lớn hơn phụ nữ vào thời điểm chẩn đoán. Ung thư vú nam chia sẻ các yếu tố nguy cơ đi kèm với ung thư vú hậu mãn kinh ở nữ.

Bệnh sử gia đình và di truyền

Như với ung thư vú nữ, bệnh sử gia đình họ hàng hàng thứ nhất có liên quan đến nguy cơ ung thư vú nam gia tăng. Gần 15 - 20% ung thư vú nam có bệnh sử gia đình, so với 7% trong quần thể nam nói chung. Nam di truyền các đột biến gien BRCA2 ước lượng có khoảng 6% nguy cơ tương đối mắc ung thư vú trong suốt đời sống.

{keywords}

Rối loạn estrogen – androgen

Kích thích của estrogen thừa có thể do các liệu pháp nội tiết (các hợp chất có chứa estrogen hay testosterone), suy chức năng gan, béo phì, sử dụng thuốc phiện, bệnh tuyến giáp, hoặc một tình trạng di truyền như hội chứng Klinefelter.

Đây là hội chứng hiếm có từ sự di truyền có thêm một nhiễm sắc thể X. Hội chứng Klinefelter gồm thiểu sản 2 tinh hoàn, nữ hóa tuyến vú, rối loạn nội tiết tố khiến tỷ lệ estrogen - testosterone cao.

Bất thường tinh hoàn

Các tình trạng tinh hoàn có liên quan với việc gia tăng ung thư vú nam gồm viêm tinh hoàn, tinh hoàn ẩn, chấn thương tinh hoàn. Trog khi có tính chất suy đoán, theo BS. Nguyên Hà, có thể những tình trạng này liên quan đến việc sản xuất androgen thấp, đưa đến tỷ lệ estrogen - androgen cao hơn bình thường.

Các biểu hiện

Ung thư vú nam điển hình được chẩn đoán thường ở giai đoạn trễ hơn ung thư vú nữ, hầu hết do thiếu nhận thức rằng ở nam giới có thể phát triển ung thư vú; thiếu thăm khám sức khỏe, tầm soát định kỳ.

Hầu hết ung thư nam thường biểu hiện với một khối chắc, không đau và thường dưới quầng vú, với ảnh hưởng núm vú từ 40 - 50% các trường hợp. Vú trái thường bị ảnh hưởng nhiều hơn một ít so với vú phải và < 1% trường hợp có ở 2 bên. Có thể đi kèm với các thay đổi ở da, gồm co kéo núm vú, loét hoặc khối bướu dính chặt vào da hoặc mô bên dưới. Hạch nách thường được sờ thấy ở các trường hợp tiến xa.

Phân biệt

Nữ hóa tuyến vú

Nữ hóa tuyến vú điển hình hiện diện ở 2 bên, lan rộng đối xứng với giới hạn không rõ. Không như ung thư vú, thường không có bằng chứng của dính chặt thành ngực bên dưới và không đi kèm với các thay đổi của da hay phì đại hạch nách

Giả nữ hóa tuyến vú

Ngược lại với nữ hóa tuyến vú, giả nữ hóa tuyến vú hiện diện sự gia tăng trong mô ở vú hơn là mô tuyến, nhìn chung có thể đánh giá được khi khám lâm sàng.

Nhiễm trùng

Bao gồm ápxe vú hoặc các nhiễm trùng da khác bao gồm thành ngực. Điển hình, chứng hiện diện như một nhiễm trùng khu trú và đau, thường đi kèm với các triệu chứng toàn thân như sốt và khó chịu.

Bướu mỡ

Chúng là các khối hình oval chứa mỡ. Bướu mỡ hầu hết là lành tính và hiếm khi có triệu chứng…

Phẫu thuật

Nam ung thư vú giai đoạn sớm điển hình được đoạn nhũ hơn là phẫu thuật bảo tồn vú vì thể tích mô vú nhỏ. Tuy nhiên, đối với nam giới có mô vú đủ để bảo tồn vẫn nên được lựa chọn phương pháp bảo tồn, loại trừ các chống chỉ định, sau đó xạ trị bổ túc.

Cũng như ở nữ giới, những bệnh nhân này cũng có nguy cơ mắc các bệnh lý ác tính khác. Một nghiên cứu gồm dữ liệu 3.400 bệnh nhân nam ung thư vú còn sống sót, trong đó 12,5% phát triển ung thư thứ hai. Loại bệnh thường gặp nhất là đường tiêu hóa, tụy, ung thư da, ung thư tiền liệt tuyến.

Vấn đề tâm lý

Đối với nam giới sau ung thư vú, vấn đề liên quan đến liệt dương và các rối loạn tâm lý dường như trở thành chủ đề thường gặp. Một nghiên cứu trên 160 bệnh nhân nam ung thư vú thường khoảng 2,9 năm từ khi chẩn đoán, các vấn đề tâm lý gồm:

- Trầm cảm và lo âu.

- Rối loạn tâm lý ở nam đã đoạn nhũ, và họ thường không lập gia đình.

- Các rối loạn liên quan đến ung thư ở những bệnh nhân trẻ tuổi hơn như hình ảnh bản thân thay đổi, tiếp nhận các kích ứng cao hơn do việc giảm khả năng sinh lý, đau, sợ hãi, và không chắc chắn về tương lai.

(Theo Sức khỏe đời sống)

Nam thanh niên trẻ mắc ung thư gan, ân hận vì loại đồ uống mê mẩn

Nam thanh niên trẻ mắc ung thư gan, ân hận vì loại đồ uống mê mẩn

- Ở tuổi 28, nam thanh niên bỗng thấy sụt cân, ăn uống không ngon. Khi đi kiểm tra, bác sĩ thông báo mắc ung thư gan, cần nhập viện gấp.