Toyota đặc biệt thích những chiếc vương miện, nên những mẫu xe như Corolla, Crown hay Camry đều xuất xứ từ đây.

Mercedes-Benz

{keywords}
Mercedes-Benz C300 AMG

Các sản phẩm của Mercedes-Benz cũng tương tự như BMW, tuy có một chút khác biệt. Dòng A-Class, C-Class của Mercedes liên quan tới cách phân hạng xe châu Âu, nhưng chúng bắt nguồn từ sự ra đời của dòng E-Class năm 1986. Khi đó, sau hàng loạt tên, Mercedes quyết định đặt dòng xe mang mã số W124 là E-Class, và chữ “E” được lấy từ thuật ngữ “Einspritz” trong tiếng Đức, có nghĩa là “phun xăng”. E-Class là sản phẩm đầu tiên của Mercedes sử dụng công nghệ phun xăng cho động cơ 6 xi-lanh.

Khi mới ra đời, các xe trong dòng E-Class có chữ E đứng sau mã số dung tích chứ không đứng trước như hiện nay. Đến năm 1994, khi giới thiệu C-Class, Mercedes mới đưa chúng lên đầu. Vì vậy, một chiếc xe 300E có nghĩa nó thuộc dòng E-Class và đời trước 1994.

Sau E-Class, dòng xe ở phân hạng thấp hơn được ký hiệu theo bảng chữ cái như C-Class năm 1994 và A-Class năm 1997. Còn sản phẩm cao cấp có ký hiệu “SEL”, “SEC”, “SE” trước đó chuyển thành S-Class vào năm 1994.

Khởi đầu, Mercedes cũng lấy dung tích xi-lanh để đánh số cho các sản phẩm của mình. Nhưng sau đó, do thay đổi động cơ và các nguyên nhân khác mà số trên tên không trùng với dung tích máy. Ví như C240 có dung tích là 2.6 lít thay vì 2.4 lít.

BMW

{keywords}
BMW 320i

Do những khó khăn trong cách đặt tên nên BMW đã sớm khôn ngoan chọn mã dung tích xi-lanh để gọi các sản phẩm của mình. Series 5 là mẫu xe BMW đầu tiên đánh tên theo dung tích xi-lanh vào năm 1972. Nếu một chiếc xe mang tên 525 có nghĩa nó thuộc series 5 và có dung tích 2.5 lít.

Sau này, khi BMW trang bị cả máy dầu và máy xăng thì sau mã tên xe còn có chữ “d” chỉ xe chạy dầu và chữ “i” chỉ xe chạy xăng. Còn chữ “L” trong series 7 có độ dài lớn để chỉ từ “long wheelbase - trục cơ sở dài”.

Toyota

{keywords}
Toyota Camry (Mycar)

Toyota đặc biệt thích những chiếc vương miện, nên những mẫu xe như Corolla, Crown hay Camry đều xuất xứ từ đây. Trong các mẫu xe bình dân, Toyota Corolla nên được nhắc tới đầu tiên vì nó là mẫu xe bán chạy. Trong tiếng Anh, Corolla có nghĩa là tràng hoa. Cùng với Corolla, hãng xe Nhật Bản này còn một mẫu khác cũng liên quan đến vương miện là Crown, dòng xe sang hơn Corolla và đương nhiên vương miện cũng đắt hơn nguyệt quế. Trước đây, Toyota Crown được sử dụng để chuyên chở các quan chức cấp cao của nhà nước.

Hết vốn từ tiếng Anh để thể hiện cho thứ mà hoa hậu nào cũng muốn đội, Toyota đành phiên âm từ Kanmuri (có nghĩ là vương miện) trong tiếng Nhật ra tiếng Anh để đặt cho mẫu xe sau này mang lại thành công ngoài mong đợi - Camry. Tuy nhiên, trên thế giới, người tiêu dùng và đặc biệt là cánh nhân viên bán hàng vẫn thích gọi Camry theo tiếng “lóng” bằng cách đảo chữ “Camry” thành “My Car” hơn.

Ford

{keywords}
Ford F150 Raptor

Nếu tính tới xu hướng lấy chữ cái đầu công ty đặt tên cho xe thì không thể không kể tới Ford Motor. Hãng xe lớn thứ hai nước Mỹ có những sản phẩm bắt đầu bằng chữ “F” như: Fairlane, Falcon, Fiesta, Five Hundred, Freestar, Freestyle, Frontenac, Fusion và Focus - mẫu xe thành công của Ford ở châu Âu.

Không nhiều hàm ý như Toyota nhưng cái tên Laser của Ford rất dễ nhớ, bởi nó làm nhiều người liên tưởng tới loại ánh sáng rất thông dụng - “tia la-de”. Escape lại thể hiện cho khả năng giải thoát, linh hoạt và mạnh mẽ.

Honda

{keywords}
Honda Civic

So với các hãng trên, Honda có cách đặt tên xe thực tế hơn nhiều. Ví dụ như mẫu Civic, với từ “Civic” được lấy bằng cách giản lược thuật ngữ Civilization (văn minh hóa), với ý nghĩa nó sẽ là mẫu xe ô tô hóa các làng quê cùng công cuộc đô thị hóa. Civic đã làm đúng theo hy vọng đó của Honda, khi trở thành mẫu xe bán chạy nhất của nhà sản xuất này.

GM

GM Daewoo có lẽ là hãng “trọng nam khinh nữ” nhất. Cho ra đời Gentra, chủ ý của GM Daewoo là gắn nó với hình ảnh của một chủ nhân lịch lãm (Gentra là từ ghép của gentleman - người đàn ông thanh lịch và transport - phương tiện đi lại). Còn với Lacetti, hãng này muốn ám chỉ hình ảnh nhanh nhẹn, cường tráng, trẻ trung và bền bỉ khi chuyển từ chữ Latin Lacertus.

Các hãng xe khác

Bên cạnh cách lấy tên viết tắt như CTS, DTS của Cadillac, một vài hãng lại khăng khăng đặt theo thực tế mà Volkswagen là một ví dụ. Hãng xe lớn nhất châu Âu lấy từ “Touareg” chỉ những người thuộc một bộ tộc cư trú tại vùng phụ cận sa mạc Sahara để đặt cho chiếc thể thao đa dụng. Hyundai, hãng xe lớn nhất Hàn Quốc, cũng có cách đặt tên tương tự như Tucson (thành phố của bang Arizona, Mỹ) hay Tiburon (một thị trấn của California, Mỹ).

{keywords}
Cadillac CTS

Acura, mác xe sang độc lập của Honda tại Bắc Mỹ từng có những cái tên đẹp như Integra (hoàn hảo), Legend (huyền thoại), Vigor (mạnh mẽ). Nhưng sau này, Acura hay thêm chữ “X” như MDX, TSX, RSX.

Xu hướng thêm hậu tố “X” cũng phổ biến ở Infiniti. Thương hiệu xe sang của Nissan tại Mỹ thường dùng số để chỉ dung tích như “35″, “45″ và các chữ cái G, M, Q, QX hay FX. Không ai biết tại sao Infiniti lại dùng những chữ cái này để đặt tên cho sản phẩm của mình. Một giả thuyết đặt ra là do lúc đó không còn chữ cái nào khả dĩ nên Infiniti đành lấy những chữ chưa được sử dụng.

Cho dù cuộc chiến tên xe làm hầu hết các hãng xe đau đầu, thì thỉnh thoảng cũng có những copy “hợp lý” như trường hợp hậu tố “lander”. Lần đầu tiên nó được sử dụng trên mẫu xe Land Rover Freelander. Sau đó là Outlander của Mitsubishi, Uplander của Chevrolet, hay Highlander của Toyota. Chắc hẳn, ngoài các tiền tố đó sẽ không còn mẫu xe nào mang hậu tố “lander” nữa.

{keywords}
Toyota Highlander

Cách đặt tên đôi khi lại do thị trường mà hãng xe đó hướng tới. Jeep chuyên sản xuất xe quân dụng nên mẫu đầu tiên của hãng mang tên Liberty (tự do), sau đó là Commander (người chỉ huy), Patriot (nhà ái quốc) hay “chất chơi” hơn là Wrangler (cao bồi). Suzuki thì tập trung vào xe hạng nhỏ nên sản phẩm của họ hay có tên như “Swift - chim én”, “Aerio - tổ chim”. Tuy nhiên, có những ngoại lệ như Grand Vitara.

(Theo Dân Việt)