Ngày 9/5, bác sĩ Nguyễn Thành Khiêm -  Khoa Phẫu thuật tiêu hóa - Gan mật tụy, Bệnh viện Bạch Mai, cho biết, bệnh nhân P.T.N (nam, 38 tuổi) có thói quen uống rượu từ năm 16 tuổi kèm theo hút thuốc lá mỗi ngày 1 bao. 

Cách vào viện một tháng, anh N. xuất hiện đau bụng vùng thượng vị âm ỉ kèm theo vàng mắt, vàng da tăng dần, gầy sút 5kg trong vòng 1 tháng. Anh N. đi khám và điều trị tại nhiều bệnh viện lớn ở Hà Nội và được chẩn đoán tắc mật do viêm tụy mạn. Sau một thời gian điều trị nội khoa nhưng tình trạng bệnh không đỡ, anh N. đến Khoa Phẫu thuật tiêu hóa - Gan mật tụy.

Bác sĩ Khiêm cho biết, anh N. vào viện với thể trạng gầy, da niêm mạc vàng đậm, đau nhiều thượng vị lan sau lưng, ăn uống kém. Hình ảnh cộng hưởng từ và cắt lớp vi tính cùng siêu âm nội soi đều cho thấy giãn ống tụy, sỏi tụy, giãn đường mật trong và ngoài gan, không rõ khối vùng đầu tụy. Xét nghiệm sinh hóa và miễn dịch cho thấy Bilirubin toàn phần tăng cao 268 μmol/l. 

Sau khi làm các thăm dò, bác sĩ quyết định phẫu thuật cho người bệnh với chẩn đoán: tắc mật do viêm tụy mạn, sỏi tụy, theo dõi u đầu tụy.

Trong quá trình mổ, bác sĩ thấy toàn bộ đầu - thân - đuôi tụy cứng chắc, đầu tụy to thâm nhiễm mạc treo. Sinh thiết hạch quanh đầu tụy cho thấy anh N. bị ung thư biểu mô tuyến di căn, do đó bệnh nhân được cắt khối tá tràng - đầu tụy, nạo vét hạch mở rộng. Kết quả giải phẫu bệnh khối tá tụy và tổ chức hạch quanh tụy là ung thư biểu mô tuyến tụy trên nền viêm tụy mạn tính. 

Sau đó, bệnh nhân được sử dụng hệ thống giảm đau đa mô thức, vận động hồi phục sớm và điều trị phối hợp với các chuyên khoa dinh dưỡng, nội tiết. 

Bác sĩ Khiêm cho biết tuy phẫu thuật thành công nhưng tiên lượng trường hợp này rất nặng do tụy viêm đã ung thư hóa và di căn hạch.

Theo bác sĩ Khiêm, ung thư tụy có tiên lượng xấu, mặc dù có nhiều tiến bộ trong chẩn đoán và giảm được tỷ lệ tử vong và biến chứng sau mổ, tỷ lệ sống sau 1 năm là 68%, 2 năm 46,7% và 5 năm là 18,7%. 

Ung thư tụy ban đầu biểu hiện triệu chứng và biến đổi cấu trúc giống như những thay đổi trong viêm tụy mạn nên các triệu chứng lâm sàng và hình ảnh rất khó phân biệt. 

Bác sĩ Khiêm cho biết, viêm tụy mạn được coi là yếu tố nguy cơ phát triển ung thư tụy. Tỷ lệ xuất hiện ung thư tụy ở bệnh nhân viêm tụy mạn là 1,8 - 3% sau 10 năm và 4% sau 20 năm.

Nghiện rượu được coi là nguyên nhân hàng đầu gây viêm tụy mạn (chiếm tới khoảng 90% các trường hợp).

Rượu gây kết tủa và làm tăng độ nhớt của dịch tiết tuyến tụy, dẫn đến sự phát triển của các nút protein trong các ống dẫn nhỏ của tụy, sau đó hình thành sỏi gây viêm và xơ hóa tiến triển, dẫn đến hủy hoại tế bào tụy ngoại tiết, tế bào hình sao và tế bào biểu mô ống tụy. Rượu cũng dẫn đến kích hoạt sớm trypsinogen và các enzym tiêu hóa khác trong chính các tế bào tụy ngoại tiết. Điều này dẫn tới quá trình tự phá hủy trong nhu mô tụy gây viêm tụy.