Đã trải qua 40 năm Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) chính thức được ký kết. PGS, TS. Nguyễn Thị Lan Anh, Viện trưởng Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao trong bài nghiên cứu có tựa đề "Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982: Bốn mươi năm vì hòa bình, phát triển bền vững biển và đại dương" đã nhấn mạnh về cơ chế hòa bình giải quyết các tranh chấp biển theo Luật Biển 1982 như sau:

Hiến chương Liên hợp quốc đã quy định nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế. Theo đó, tranh chấp phải được giải quyết thông qua các biện pháp như đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án và các tổ chức khu vực và quốc tế hoặc bất kỳ biện pháp hòa bình nào khác do các bên tự lựa chọn. UNCLOS năm 1982 đã tái khẳng định tinh thần của nguyên tắc này, đồng thời khéo léo kết hợp các biện pháp hòa bình để tạo ra một cơ chế giải quyết tranh chấp phù hợp với đặc thù của các tranh chấp giữa các quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước.

Theo đó, UNCLOS năm 1982 dành ưu tiên cho những thỏa thuận về các biện pháp giải quyết tranh chấp mà các bên đã thống nhất từ trước. Nếu không tồn tại thỏa thuận sẵn có về biện pháp giải quyết tranh chấp, UNCLOS năm 1982 yêu cầu các bên đàm phán trực tiếp thông qua quy định trao đổi quan điểm là một biện pháp bắt buộc. Bên cạnh đó, UNCLOS năm 1982 khuyến khích các bên sử dụng biện pháp hòa giải như là một lựa chọn tự nguyện nhằm tạo điều kiện cho đàm phán trực tiếp.

Ảnh minh họa

Tuy nhiên, trao đổi quan điểm bắt buộc không có giá trị vô thời hạn. Công ước chỉ yêu cầu các bên có nghĩa vụ trao đổi quan điểm trong một khoảng thời gian hợp lý. Quá thời hạn đó, nếu các bên không đạt được giải pháp để giải quyết tranh chấp, các cơ quan tài phán sẽ là lựa chọn tiếp theo. Để có thêm lựa chọn linh hoạt, UNCLOS năm 1982 quy định các bên có thể tuyên bố lựa chọn một trong bốn cơ quan tài phán, bao gồm: Tòa án Công lý quốc tế (ICJ), Tòa Luật Biển quốc tế (ITLOS), Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII và Trọng tài thành lập theo Phụ lục VIII. Trong đó, ngoài ICJ là tòa án được thành lập bên cạnh Liên hợp quốc từ năm 1945, các thể chế còn lại đều được thành lập mới theo quy định của UNCLOS năm 1982. Điểm đặc biệt là, UNCLOS năm 1982 tạo ra một cơ chế mặc định mang tính chất tự động. Theo đó, nếu các bên không đưa ra tuyên bố lựa chọn cơ quan tài phán, hoặc lựa chọn các cơ quan khác nhau thì Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII là cơ quan có thẩm quyền bắt buộc để giải quyết tranh chấp.

Quy định cơ chế mặc định này vừa bảo đảm sự linh hoạt trong việc lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp, vừa bảo đảm hiệu quả khi một bên có thể sử dụng quyền đơn phương khởi kiện Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII để giải quyết các tranh chấp với một quốc gia thành viên khác về những bất đồng liên quan đến việc giải thích và thực thi UNCLOS năm 1982. Quyền đơn phương khởi kiện được quy định trên cơ sở UNCLOS năm 1982 là một Công ước cả gói, các quốc gia thành viên khi phê chuẩn Công ước không được phép bảo lưu bất kỳ điều khoản nào, và do vậy, đã tự nguyện ràng buộc với thẩm quyền bắt buộc của cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định tại Phần XV của Công ước.

Tuy nhiên, để tạo thêm sự linh hoạt cho cơ chế giải quyết tranh chấp, và cũng là để khắc phục hạn chế về quy định cứng của Nghị định Giải quyết tranh chấp năm 1958 (dẫn tới việc nhiều quốc gia không phê chuẩn), UNCLOS năm 1982 quy định thêm những ngoại lệ và hạn chế.

Theo đó, những tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các quy định của Công ước về việc thi hành quyền thuộc chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển đương nhiên thuộc phạm vi loại trừ khỏi các cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của các cơ quan tài phán.

Các tranh chấp liên quan đến phân định biên giới, ranh giới biển, hoạt động quân sự của tàu thuyền, hoặc đang được Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc xem xét cũng thuộc phạm vi loại trừ theo lựa chọn khỏi các cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của các cơ quan tài phán. Theo đó, nếu quốc gia thành viên ra tuyên bố loại trừ ba loại tranh chấp được lựa chọn này, các quốc gia khác không được phép khởi kiện các tranh chấp này ra các cơ quan tài phán theo quy định của Công ước.

Mặc dù được loại trừ đương nhiên hoặc theo lựa chọn một số tranh chấp khỏi phạm vi giải quyết tranh chấp bắt buộc thông qua các cơ quan tài phán, các quốc gia thành viên vẫn có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình khác, trong đó có nghĩa vụ trao đổi quan điểm. Đặc biệt, UNCLOS năm 1982 quy định với những tranh chấp được loại trừ này, một bên có thể đơn phương yêu cầu áp dụng biện pháp hòa giải bắt buộc để đưa ra khuyến nghị về các biện pháp giải quyết tranh chấp.

Có thể nói, với những quy định linh hoạt, sáng tạo, UNCLOS năm 1982 đã tạo ra một cơ chế giải quyết tranh chấp với nhiều tầng nấc, vừa bảo đảm sự linh hoạt, quyền tự do lựa chọn của các bên về biện pháp, cơ quan giải quyết tranh chấp, vừa tạo điều kiện thúc đẩy quá trình giải quyết tranh chấp của các bên.

Đặc biệt, cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS năm 1982 là cơ chế đầu tiên tiên phong quy định quyền đơn phương khởi kiện của quốc gia thành viên ra một cơ quan tài phán quốc tế. Nhờ quy định này, nhiều tranh chấp giữa các quốc gia trên biển đã được giải quyết và thu hẹp bất đồng giữa các quốc gia. Kể từ khi UNCLOS năm 1982 ra đời, 29 tranh chấp biển đã được giải quyết thông qua ICJ, 18 tranh chấp đã được giải quyết thông qua ITLOS và 11 tranh chấp đã được giải quyết thông qua Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII.

Văn Hùng (tóm lược), Kiều Oanh, Anh Dũng