Trong nhiều năm qua, công nghiệp luôn giữ vai trò trụ cột, động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh Bắc Ninh. Giai đoạn 2021–2025, giá trị gia tăng ngành công nghiệp của tỉnh tăng bình quân khoảng 11%/năm, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) liên tục nằm trong nhóm dẫn đầu cả nước, duy trì ở mức tăng hai con số.

Công nghiệp hỗ trợ của tỉnh hình thành và lớn mạnh chủ yếu từ hiệu ứng lan tỏa của các dự án FDI quy mô lớn trong lĩnh vực điện – điện tử, cơ khí chính xác. Hiện toàn tỉnh ước có khoảng 3.500 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, tập trung vào các ngành mũi nhọn như cơ khí, điện, điện tử.

Hạ tầng – chính sách tạo “lực kéo” cho công nghiệp hỗ trợ

Một trong những nền tảng quan trọng thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ Bắc Ninh là môi trường đầu tư, kinh doanh liên tục được cải thiện. Tỉnh đã đẩy mạnh cải cách hành chính, triển khai cơ chế “luồng xanh” đối với các dự án hạ tầng trọng điểm, dự án khoa học – công nghệ, sản xuất công nghiệp quy mô lớn, qua đó rút ngắn thời gian xử lý thủ tục và giảm chi phí cho doanh nghiệp.

Song song với cải cách thủ tục, Bắc Ninh đặc biệt chú trọng quy hoạch và đầu tư hạ tầng đồng bộ. Hệ thống giao thông liên vùng, liên tỉnh với các tuyến cao tốc, vành đai, cảng cạn ICD, trung tâm logistics cùng định hướng phát triển Cảng hàng không Gia Bình đã tạo lợi thế lớn trong kết nối chuỗi cung ứng. Đây là yếu tố quan trọng giúp Bắc Ninh không chỉ thu hút các dự án FDI lớn mà còn tạo “đất diễn” cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất.

Sau sáp nhập, tỉnh có 50 khu công nghiệp với tổng diện tích hơn 15.200 ha và 112 cụm công nghiệp với diện tích khoảng 4.500 ha được quy hoạch. Trong đó, 33 khu công nghiệp và 96 cụm công nghiệp đã và đang triển khai, với tỷ lệ lấp đầy lần lượt khoảng 56% và 73%. Các khu, cụm công nghiệp được đầu tư hạ tầng đồng bộ, mặt bằng sạch, tạo điều kiện để hình thành các “tổ hợp sản xuất”, thu hút dự án lớn và kéo theo sự phát triển của chuỗi doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ.

Bên cạnh đó, tỉnh chú trọng đảm bảo nguồn năng lượng ổn định cho sản xuất. Bắc Ninh đã quy hoạch 15 dự án nguồn điện với tổng công suất gần 1.940 MW, cùng hàng nghìn MW điện mặt trời mái nhà đến năm 2035. Việc ưu tiên cung ứng điện cho sản xuất không chỉ giúp doanh nghiệp yên tâm mở rộng đầu tư mà còn góp phần thúc đẩy mục tiêu sản xuất xanh, bền vững.

Ảnh màn hình 2025 12 29 lúc 19.00.34.png
Bắc Ninh định hình trung tâm công nghiệp hỗ trợ từ động lực FDI và hạ tầng

Trên nền tảng hạ tầng đó, Bắc Ninh đã ban hành và triển khai nhiều chính sách chuyên biệt cho công nghiệp hỗ trợ, như chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ giai đoạn 2021–2025, cơ chế quản lý và sử dụng kinh phí hỗ trợ doanh nghiệp. Đặc biệt, mô hình hợp tác giữa tỉnh, Bộ Công Thương và Samsung Electronics Việt Nam trong tư vấn cải tiến, phát triển nhà máy thông minh đã mang lại kết quả thực chất. Từ năm 2020 đến nay, hàng chục lượt doanh nghiệp được tư vấn cải tiến, trong đó nhiều nhà máy từng bước chuyển đổi sang mô hình sản xuất thông minh.

Việc Hiệp hội sản xuất công nghiệp tỉnh Bắc Ninh chính thức đi vào hoạt động từ năm 2025 cũng được kỳ vọng sẽ tăng cường liên kết, hình thành cộng đồng doanh nghiệp nội địa có năng lực công nghệ cao, tạo tiếng nói chung trong tham gia chuỗi cung ứng.

Cơ hội lớn song thách thức vẫn hiện hữu

Dù đạt nhiều kết quả tích cực, công nghiệp hỗ trợ Bắc Ninh vẫn đối mặt không ít thách thức. Phần lớn doanh nghiệp nội địa có quy mô vừa và nhỏ, năng lực tài chính, công nghệ và quản trị còn hạn chế. Hoạt động sản xuất vẫn phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu, linh kiện nhập khẩu; tỷ lệ nội địa hóa trong một số ngành còn thấp, làm giảm khả năng cạnh tranh.

Năng suất lao động và hàm lượng công nghệ trong sản phẩm của doanh nghiệp trong nước chủ yếu ở mức trung bình – thấp, khó đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của tập đoàn FDI để tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Trong khi đó, nguồn nhân lực chất lượng cao cho các khâu R&D, kiểm nghiệm, thiết kế, vận hành công nghệ hiện đại còn thiếu hụt.

Tuy vậy, Bắc Ninh đang đứng trước những cơ hội lớn. Tỉnh đã hình thành rõ ba nhóm ngành công nghiệp trọng điểm là điện – điện tử, cơ khí chế tạo và công nghiệp công nghệ cao, trong đó điện – điện tử giữ vai trò dẫn dắt. Sự hiện diện của các dự án FDI lớn trong lĩnh vực bán dẫn, linh kiện điện tử, cùng hạ tầng giao thông – logistics hoàn thiện đang tạo ra nhu cầu lớn cho sản phẩm, dịch vụ công nghiệp hỗ trợ.

Định hướng giai đoạn 2026–2030, Bắc Ninh đặt mục tiêu tăng trưởng GRDP 11–12%/năm, tiếp tục lấy công nghiệp làm động lực, đồng thời phát triển các ngành mới như bán dẫn, chip, AI, robot, năng lượng tái tạo, vật liệu mới. Tỉnh hướng tới mô hình “hệ sinh thái công nghiệp” với tiêu chí phát triển xanh, công nghệ cao, hiệu quả kinh tế lớn, gắn kết chặt chẽ doanh nghiệp trong nước với chuỗi giá trị toàn cầu.

Để hiện thực hóa mục tiêu này, Bắc Ninh xác định cần tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, ưu tiên chính sách cho công nghiệp hỗ trợ tại các địa phương có lợi thế; hình thành trung tâm phát triển công nghiệp hỗ trợ cung cấp dịch vụ R&D, kiểm thử, tư vấn kỹ thuật; đẩy mạnh đào tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu sản xuất hiện đại; đồng thời tăng cường yêu cầu các dự án FDI có kế hoạch phát triển chuỗi cung ứng nội địa.

Song Minh