Phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh
Nhìn lại cuộc đấu tranh ngoại giao đưa đến ký kết Hiệp định Paris là ôn lại một chặng đường hào hùng trong lịch sử dân tộc, lan tỏa và giáo dục truyền thống vẻ vang của nền ngoại giao Việt Nam độc đáo và đặc sắc.
Quá trình đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Paris là một pho sách vô cùng quý báu về trường phái đối ngoại và ngoại giao Việt Nam với nhiều bài học mãi mãi còn nguyên giá trị, trong đó có những bài học đã trở thành triết lý, quan điểm xuyên suốt đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Trong diễn văn kỷ niệm 50 năm Hiệp định Paris, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn nhấn mạnh: Độc lập, tự cường và toàn vẹn non sông là nguyên tắc bất biến, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Bên cạnh kiên cường bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, ông cha ta luôn chú trọng hoạt động ngoại giao, tạo nên truyền thống và bản sắc riêng của nền ngoại giao Việt Nam đầy hào khí, hòa hiếu, trọng lẽ phải, chính nghĩa và công lý: "Đem đại nghĩa để thắng hung tàn; Lấy chí nhân mà thay cường bạo!"; "Dập tắt muôn đời lửa chiến tranh; Mở nền muôn thủa thái bình!".
"Đây là những tư tưởng, triết lý mãi trường tồn cùng dân tộc Việt Nam" - Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn nhấn mạnh.
Theo Bộ trưởng, từ đàm phán bảo vệ nền độc lập sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến đàm phán, ký kết Hiệp định Geneva năm 1954 và đỉnh cao là đàm phán, ký kết Hiệp định Paris năm 1973, tạo tiền đề để nhân dân ta thực hiện khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và phát triển phồn vinh.
"Hiệp định Paris được ký kết cách đây tròn nửa thế kỷ đã kết thúc thắng lợi cuộc đàm phán dài nhất, phức tạp nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam để chấm dứt cuộc chiến tranh dài nhất trong thế kỷ 20", Bộ trưởng nói. Thắng lợi này có ý nghĩa chiến lược, tạo nên cục diện mới để quân và dân ta tiến lên "đánh cho ngụy nhào" với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, mở ra kỷ nguyên hòa bình, độc lập, thống nhất và phát triển ở Việt Nam.
"Chiến thắng vĩ đại này là kết tinh thành quả đấu tranh kiên cường, bất khuất và hy sinh vô cùng to lớn của quân và dân ta trên mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ Đồng khởi Bến Tre năm 1960, đến Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, Tiến công chiến lược Xuân - Hè năm 1972 và chiến thắng vang dội 12 ngày đêm "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không". Ngoại giao đã trở thành một mặt trận tiến công, kết hợp nhuần nhuyễn và chuyển hóa hoàn toàn thắng lợi trên mặt trận chính trị, quân sự thành thắng lợi trên bàn đàm phán, thể hiện sáng ngời bản lĩnh, cốt cách và trí tuệ Việt Nam, thấm đượm tư tưởng, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh", Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn chia sẻ thêm.
Chiến tranh - Hòa bình - Đấu súng và Đấu lý
Sau 50 năm, nhắc lại chuyện hòa đàm ở Paris về cuộc chiến giữa Việt Nam và Hoa Kỳ tưởng vẫn còn nóng hổi. Chiến tranh - Hòa bình - Đấu súng và Đấu lý. Lịch sử sẽ nhắc tên: Lê Đức Thọ, Nguyễn Duy Trinh, Xuân Thủy, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Thành Lê, Dương Đình Thảo...
Từ câu chuyện ngoại giao đến lễ ký Hiệp định
Thông thường những cuộc chiến tranh lớn, trước và sau tàn cục, hai bên có tiếp xúc với nhau ở bàn hội nghị. Những bàn thảo và ký kết đa phần là gọn và nhanh.
Nhưng cuộc chiến giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là một ngoại lệ. Thời gian Hội nghị kéo dài 4 năm 8 tháng, từ 12/5/1968 đến 27/1/1973 với 226 phiên và 500 cuộc họp báo. Cuộc gặp của hai phía khi chiến trường chưa im tiếng súng và không ít rắc rối, tranh luận ngay từ phút đầu. Hoa Kỳ muốn họp ở Geneve (Thụy Sĩ), Việt Nam đề xuất ở Campuchia hoặc Ba Lan. Cuối cùng thống nhất chọn địa điểm ở Paris (Pháp).
Chuyện tưởng êm, lại nảy sinh tình huống mới. Trong cuốn hồi ký “Gia đình, bạn bè và đất nước” (NXB Tri Thức 2012) bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam - Trưởng đoàn đàm phán tại Hội nghị nhắc lại chuyện chọn cái bàn họp: bầu dục hay vuông, hay chữ nhật? Đây không phải hình thức mà đằng sau là tính pháp lý của bên dự họp.
Từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1968, cuộc bàn cãi giữa Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Xuân Thủy (phía ta) và Đại sứ William Harriman (phía Mỹ) đã rất gay gắt về vấn đề vai trò của Mặt trận dân tộc giải phóng và chính quyền Sài Gòn.
Cuộc đấu tranh “bốn bên hay hai bên” có ý nghĩa chính trị rất quan trọng. Sau cùng đi đến thống nhất: sẽ có một cái bàn to, đường kính 8 mét. Mỗi bên có một vạch phân chia nằm bên ngoài. Như vậy, là ai hiểu hai bên hay bốn bên cũng được. Ngày 27/11/1968, Hội nghị bốn bên mới bắt đầu.
Các sử gia chính trị và ngoại giao sẽ có những công trình chuyên sâu về hội nghị này. Bạn đọc thông thường chỉ cần nhớ một số mốc thời gian và sự kiện quan trọng.
Ngày 5/8/1964, Mỹ kiếm cớ gây “sự kiện Vịnh Bắc bộ” để đưa máy bay đánh phá miền Bắc Việt Nam.
Tháng 2/1965, Đèo Ngang và Đồng Hới liên tục bị oanh tạc.
Ngày 31/3/1968, Tổng thống Mỹ Johnson tuyên bố ngưng ném bóm bắn phá 90% lãnh thổ miền Bắc.
Ngày 13/5/1968, tại Paris, cuộc họp hai bên bắt đầu với đại diện Đại sứ Harriman (Mỹ) và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Xuân Thủy (Việt Nam)
Ngày 6/6/1969, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố thành lập.
Ngày 8/6/1969, Tổng thống Richard Nixon tuyên bố chính sách Việt Nam hóa chiến tranh.
Đầu tháng 10/1972, dự thảo Hiệp định hình thành, dự kiến đến 30/10/1972 sẽ ký. Nhưng đầu tháng 11/1972, Nixon thắng cử tổng thống liền đòi sửa hiệp định, lật lọng và quyết định đem B-52 rải thảm Hà Nội, Hải Phòng.
Bị thất bại, phía Mỹ đồng ý ký hiệp định. Ngày 23/1/1973, ông Lê Đức Thọ và Henry Kissinger ký tắt vào văn bản Hiệp định với 9 chương 23 điều.
Hội nghị Paris về Việt Nam gây sự chú ý của dư luận quốc tế không chỉ ở thời gian, ngôn từ, tên gọi, rút thăm phát biểu, đấu lý, phương thức đánh - đàm. Các cuộc họp giữa bốn bên diễn ra lúc căng, lúc chùng, nhiều lần đứt đoạn, bế tắc bởi các cuộc đối đáp “giữa những người điếc”.
Nhưng cái gì đến sẽ phải đến.
Sáng 27/1/1973, phòng hội nghị Kleber rực sáng ánh đèn.