Đối với nhiều nhà sáng lập các công ty công nghệ, như Elon Musk và Jack Dorsey, họ phải trải qua vài lần vấp ngã họ mới có thể tạo dựng được công ty gắn liền với tên tuổi và mang về những khối gia tài khổng lồ hàng tỷ USD.
Cả nhà sáng lập của Tesla lẫn Twitter đều chỉ đạt được những thành công nhỏ nhoi với những công ty công nghệ đầu tiên của họ khi còn trẻ tuổi. Họ, cùng nhiều người khác, phải mất nhiều lần thử trước khi đưa ra được những ý tưởng thức thời và biến bản thân thành những cái tên lớn trong ngành công nghiệp công nghệ.
Dù câu chuyện về những anh chàng bỏ học Đại học như nhà sáng lập Facebook Mark Zuckerberg rất được mọi người chú ý, không phải mọi lãnh đạo của các công ty công nghệ đều thành công khi còn trẻ như vậy. Nhiều người đã kiếm được hàng triệu USD khi mới ở độ tuổi 20, trong khi số khác, như nhà sáng lập Oracle là Larry Ellison, chỉ thành công khi đã qua 30 hoặc muộn hơn.
Năm: 1995
Musk và anh trai, Kimbal, thành lập Zip2 (tên ban đầu là Global Link Information Network), một công ty cung cấp các chỉ dẫn du lịch trong thành phố trực tuyến cho các tờ báo như New York Times và Chicago Tribune. Công ty này được công ty máy tính Compaq mua lại vào 4 năm sau đó.
Musk tiếp tục tham gia thành lập nhiều công ty khác, bao gồm X.com (sau này sáp nhập với PayPal), và các công ty hiện nay ông đang làm CEO: Tesla, SpaceX, và The Boring Company.
Năm: 1984
Michael Dell thành lập Dell Technologies tại phòng ký túc của mình khi mới nhập học Đại học Texas ở Austin. Công việc thuận lợi đến mức ông cuối cùng đã thuyết phục được cha mẹ rằng mình có thể bỏ học Đại học để theo đuổi sự nghiệp kinh doanh.
Năm: 2004
Zuckerberg thành lập Facebook, tên gọi ban đầu là "Thefacebook", tại phòng ký túc của mình vào năm 2004 khi còn là sinh viên năm 2 của Harvard. Cuối năm đó, anh bỏ học để dồn toàn bộ thời gian phát triển mạng xã hội của mình.
Năm: 1991
Vài năm sau khi tốt nghiệp Đại học Tufts, Omidyar đồng sáng lập một công ty điện toán tên là Ink Development với bạn bè. Công ty này sau đó đổi tên thành một công ty phần mềm mua sắm internet là eShop, và được Microsoft mua lại vào năm 1996 với giá 50 triệu USD. Trước khi thương vụ hoàn tất, Omidyar đã lập nên eBay vào năm 1995.
Năm: 1972
Ở Trung học, Gates và một người bạn tên Paul Allen đã lập nên một công ty gọi là Traf-o-Data. Công ty này đảm nhận tự động hóa quy trình phân tích dữ liệu luồng giao thông cho đường phố Washington.
Công ty tiếp tục hoạt động sau khi bộ đôi học xong Trung học, vào Đại học, và... bỏ học, rồi thành lập nên Microsoft vào năm 1975. Traf-o-Data cuối cùng thất bại vì một vấn đề mà Allen gọi là một "mô hình kinh doanh lỗi", và lúc này cả hai mới tập trung toàn lực vào Microsoft.
Năm: 1994
Yang gặp đồng sáng lập Yahoo là David Filo tại Stanford khi đang theo đuổi chương trình Tiến sỹ kỹ thuật điện. Họ bắt đầu phát triển Yahoo dưới dạng một dự án phụ nhằm theo dõi các đường link yêu thích của mình trên internet. Cuối cùng, họ lập nên một website thư mục trực tuyến với tên gọi "Jerry and David's Guide to the World Wide Web" vào tháng 1/1994. Website này đạt 1 triệu lượt truy cập lần đầu tiên vào mùa thu năm đó.
Năm: 1999
Dorsey bỏ học Đại học đến 2 lần. Ở ngôi trường đầu tiên, Đại học Missouri-Rolla, anh hack vào website một công ty tên Dispatch Management Services và phát hiện một lỗ hổng bảo mật. Nhà sáng lập công ty đó, Gregg Kidd, đã thuê Dorsey ngay lập tức và thuyết phục anh đến văn phòng tại New York để làm việc.
Tại New York, Dorsey ghi danh vào Đại học New York, nhưng một thời gian ngắn sau lại tiếp tục bỏ học để cùng Kidd chuyển đến San Francisco. Cả hai lập ra một công ty phần mềm là dNet, cung cấp dịch vụ chuyển phát trong ngày dành cho các đơn hàng trực tuyến. Họ thu hút được đầu tư từ tập đoàn đầu tư Band of Angels, nhưng công ty sau đó lại thất bại. Sáu năm sau, Dorsey lập nên Twitter.
Năm: 1981
Trước khi lập nên SoftBank ở tuổi 24, Son đã là triệu phú. Ông kiếm tiền khi còn đang học Đại học Berkeley thông qua hai dự án kinh doanh riêng biệt: cho các quán bar và nhà hàng địa phương thuê máy chơi game console, và phát triển một chiếc máy phiên dịch điện tử bỏ túi mà sau đó được Sharp Electronics mua lại vào năm 1979.
Khi trở về Nhật Bản, Son lập nên SoftBank - một nhà phân phối linh kiện máy tính và phần mềm. Công ty này hiện đầu tư hàng tỷ USD vào các startup công nghệ lớn như Uber, We Company (WeWork), và DoorDash.
Năm: 2011
Spiegel lần đầu đưa ra ý tưởng về Snapchat trong lớp thiết kế sản phẩm tại Stanford vào tháng 4/2011. Tuy nhiên, cả lớp cho rằng việc chia sẻ những hình ảnh mà sau đó sẽ biến mất vĩnh viễn với bạn bè là một ý tưởng tệ hại.
Vài tháng sau, Spiegel và các đồng sáng lập Bobby Murphy và Reggie Brown lập nên Snapchat. Ứng dụng này ban đầu tên là "Picaboo", và trụ sở công ty đạt tại nhà của cha Spiegel ở Los Angeles. CEO Snapchat bỏ học Stanford khi sắp tốt nghiệp để làm việc tại Snapchat, dù sau đó anh quay lại trường và hoàn thành nốt chương trình vào năm 2018.
Năm: 1994
Ma bỏ nghề dạy tiếng Anh tại một đại học địa phương để lập nên công ty phiên dịch tên Haibo Translation Agency. Khi đang giúp phiên dịch cho một công ty Trung Quốc, Ma đến Mỹ vào năm 1995 và mua được chiếc máy tính kết nối Internet đầu tiên của mình.
Có máy, việc đầu tiên của Ma là tìm từ khóa "beer" (bia), nhưng ông ngạc nhiên khi thấy không có nhãn hiệu beer nào của Trung Quốc hiện lên trong danh sách kết quả. Đó là lúc ông quyết định lập ra một công ty internet cho Trung Quốc, sau đó trở thành Alibaba.com
Năm: 1998
Hai đồng sáng lập Google gặp nhau năm 1995, khi Brin dẫn Page dạo quanh Đại học Stanford. Brin là sinh viên khoa khoa học máy tính tại đây, còn Page đang cân nhắc nhập học. Ban đầu, họ khá ghét nhau, nhưng đã trở thành bạn cùng lớp khi Page nhập học chương trình tiến sỹ.
Cả hai bắt đầu hợp tác trong một dự án nghiên cứu về phân loại mọi đường link trên internet, gọi là BackRub. Sau đó học bỏ học Stanford và lập nên Google vào năm 1998 ngay tại gara nhà CEO YouTube, Susan Wojcicki, ở Menlo Park, California.
Năm: 1977
Sau khi bỏ học đại học đến 2 lần, Ellison trải qua nhiều công việc tại California và học máy tính và lập trình. Ông gia nhập một công ty công nghệ là Ampex, đảm nhận việc xây dựng cơ sở dữ liệu cho CIA. Ông và hai đồng nghiệp tại Ampex, Ed Oates và Bruce Scott, rời công ty để bắt đầu một công ty tư vấn cơ sở dữ liệu gọi là Software Development Laboratories. Công ty mới của họ giành được một hợp đồng với CIA để xây dựng cơ sở dữ liệu bằng ngôn ngữ lập trình SQL. Hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu học tạo ra có tên mã là Oracle, và sau đó trở thành tên gọi của công ty.
Năm: 1976
Jobs và đồng sáng lập Apple, Steve Wozniak, gặp lần đầu thông qua một người bạn chung vào năm 1971, trước khi cả hai vào đại học và thành bạn bè. Họ thường hợp tác cùng nhau trong các dự án công nghệ nhỏ, và cùng nhau tham dự các buổi gặp mặt do Homebrew Computer Club tổ chức vào năm 1975. Jobs và Wozniak hứng thú với máy tính sau khi tham dự các buổi gặp mặt đó, và biến sở thích thành một công ty tên Apple không lâu sau đó.
Hai vị Steve khởi nghiệp trong gara của cha mẹ Jobs. Hàng xóm kể lại rằng họ thường thấy Jobs tổ chức các cuộc họp ở ngoài garage khi đang mặc quần jean và đi chân trần.
Năm: 2006
Karp chưa bao giờ hoàn thành Trung học (anh nghỉ học năm 14 tuổi) chứ chưa nói đến học đại học. Điều đó không ngăn anh gia nhập làng công nghệ và trở thành giám đốc công nghệ của công ty nhắn tin trực tuyến (nay đã không còn nữa) tên UrbanBaby mà CNET mua lại vào năm 2006.
Anh kiếm được hàng ngàn USD sau thương vụ đó và lập nên công ty riêng tên Davidville. Karp sử dụng Davidville để phát triển nhiều công ty Internet khác, bao gồm Tumblr.
Năm: 1994
Bezos nghỉ việc tại quỹ phòng hộ D.E. Shaw để lập nên Amazon.com - ban đầu là một trang bán sách trực tuyến. Ông đã đi dọc đất nước cùng vợ cũ là MacKenzie để lập nên Amazon tại Seattle. CEO Amazon dành toàn bộ thời gian ngồi trên xe để vạch ra kế hoạch kinh doanh trên chiếc máy tính của mình, và gọi điện cho các nhà đầu tư tương lai trên di động.