Ngày 4/10, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) cho biết, đã nhận được đề xuất của Công ty Cổ phần Than Cọc Sáu - Vinacomin (Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam) về việc thu hồi và sử dụng đất đá thải mỏ trong quá trình khai thác than để làm vật liệu san lấp.
Lý do được công ty này đưa ra là hiện nay nhu cầu sử dụng đất đá thải mỏ làm vật liệu san lấp cho các dự án trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh rất lớn và cấp bách.
Trước đó, ngày 23/12/2020, UBND tỉnh Quảng Ninh giao Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) lập kế hoạch khai thác, sử dụng đất đá thải trong quá trình khai thác, chế biến than làm vật liệu san lấp cho các dự án công trình trên địa bàn tỉnh.
Đến nay, TKV đã hoàn thành việc quy hoạch các khu vực hoạt động khai thác, sử dụng và kinh doanh đất đá thải trong quá trình khai thác, chế biến than thuộc TKV trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Bộ TN&MT cấp giấy phép khai thác than cho Công ty Cổ phần Than Cọc Sáu - Vinacomin từ năm 2008 bằng phương pháp lộ thiên tại các vỉa than thuộc khu vực mỏ Cọc Sáu (phường Cẩm Phú, TP Cẩm Phả).
Trong quá trình khai thác than, đất đá thải mỏ được đổ thải tại các bãi thải theo quy hoạch của tỉnh Quảng Ninh.
Ngoài Công ty Cổ phần Than Cọc Sáu - Vinacomin, Công ty Cổ phần Thiên Nam cũng có văn bản gửi Bộ TN&MT xin tận dụng đất đá thải tại mỏ than Mông Dương để sản xuất cát nghiền nhân tạo thay thế cát tự nhiên, vật liệu san nền.
Theo đại diện Công ty Thiên Nam, đơn vị này đang khảo sát khu vực tại bãi thải mỏ của Công ty than Mông Dương và thấy có đất đá thải mỏ phù hợp để tận dụng, sản xuất thành cát nghiền nhân tạo bao gồm 4 dây chuyền, mỗi dây chuyền có công suất 600 tấn/h.
Các bãi thải khai thác than trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh phân bố chủ yếu tại TP Hạ Long, TP Uông Bí, thị xã Đông Triều và nhiều nhất là ở TP Cẩm Phả. Tại Cẩm Phả, ngoài hai Công ty than Cao Sơn và Cọc Sáu, còn nhiều đơn vị khác cũng khai thác than lộ thiên, đổ thải.
Tổng diện tích các bãi thải ở Quảng Ninh hơn 4.000ha, có thể chứa khoảng 2.125 triệu m3 đất đá, hiện nay đã chứa hơn 1.375 triệu m3. Hằng năm, các đơn vị khai thác than lộ thiên đổ thải khoảng 150 triệu m3.
Cần phải xem xét quá trình khai thác, vận chuyển đất đá thải mỏ
Liên quan đến vấn đề này, đại diện Bộ TN&MT cho biết, Bộ chưa có văn bản trả lời và đang thực hiện theo quy trình, nếu xác định đúng là vật liệu xây dựng thì mới cho phép thực hiện.
Trong quá trình khai thác than (nhất là các mỏ lộ thiên), để thu hồi than đạt chất lượng phải thải bỏ một lượng đất đá phủ, đất đá vây quanh vỉa than (chủ yếu đây là khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường để sử dụng san lấp).
Mỗi năm các mỏ than vùng Quảng Ninh đưa ra các bãi thải hàng triệu m3 đất đá, sau vài chục năm đã hình thành những bãi thải chiếm dụng hàng ngàn ha, gây ô nhiễm môi trường và nguy cơ gây sạt lở đất đá, trôi lấp đất đá vào khu vực dân cư vào mùa mưa bão.
Đại diện Bộ TN&MT cho rằng, việc sử dụng đất, đá từ bãi thải của mỏ than nào, vị trí ở đâu, bãi thải đang hoạt động hay bãi thải thuộc các mỏ đã được đóng cửa mỏ, bãi thải đã dừng đổ thải hay sử dụng trực tiếp đất đá trong quá trình khai thác than, cần phải được xem xét, đánh giá cụ thể về công nghệ, phương pháp khai thác, tác động đến môi trường trong quá trình khai thác, vận chuyển đất, đá thải mỏ.
Bộ TN&MT cũng khuyến cáo phải có giải pháp quản lý chặt chẽ, hiệu quả tránh tình trạng doanh nghiệp lợi dụng việc vận chuyển đất, đá thải để “tuồn” than đạt chất lượng từ mỏ đi tiêu thụ trái phép, gây thất thoát tài nguyên khoáng sản, ngân sách Nhà nước.
Theo quy định của pháp luật về khoáng sản, đất đá thải của mỏ than là khoáng sản đi kèm, nếu muốn khai thác, tổ chức, cá nhân khai thác phải báo cáo Bộ TN&MT và được cho phép; phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định.