Đến lúc bỏ thế độc quyền?
Giá vàng SJC trong nước cao hơn thế giới và các thương hiệu nội hàng chục triệu đồng một lượng. Nhiều ý kiến cho rằng, nếu bỏ thế độc quyền của SJC thì sẽ bỏ được chênh lệch về giá.
Vậy, đã đến lúc bỏ thế độc quyền của SJC, bỏ thế độc quyền kinh doanh vàng hay chưa?
Trao đổi với PV. VietNamNet, PGS.TS Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế đánh giá: Giá vàng SJC tăng cao, cao hơn những loại vàng khác cả chục triệu đồng/lượng. Lý do là bởi Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng quy định vàng SJC là thương hiệu vàng duy nhất. Chính điều này đã gây sự chênh lệch lớn về giá.
“Ở các nước có rất nhiều thương hiệu, chứ không chỉ có một. Chỉ có một thương hiệu độc quyền, khi cầu lớn hơn cung, giá chắc chắn tăng”, ông Long nói.
Vị chuyên gia cho rằng, cách đây hơn chục năm, khi tình hình thị trường vàng bất ổn, ảnh hưởng đến kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ nên buộc phải có Nghị định 24.
Không thể phủ nhận, từ khi có Nghị định 24, thị trường vàng trong nước đã ổn định; không còn cơn "sốt giá" vàng và vàng không còn là công cụ thanh toán trong nền kinh tế.
Nghị định 24 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng cho thấy Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực thi rất chặt chẽ chính sách quản lý thị trường vàng. NHNN không cho phép các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng nhập khẩu vàng theo giấy phép như trước đây, góp phần bình ổn tỷ giá và hạn chế việc sản xuất vàng miếng thông qua nhập khẩu vàng để bán cho nhu cầu đầu tư và tích trữ.
Ngoài ra, không còn tình trạng người dân đổ xô đi mua vàng, tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế được ngăn chặn, vàng miếng không còn được sử dụng làm phương tiện thanh toán... NHNN cũng không cho phép các ngân hàng thương mại huy động, cho vay vàng, sử dụng vàng làm tài sản và đưa vào bảng cân đối tài sản. Nhờ đó, giá vàng không bị chi phối hay điều khiển bởi nguồn vàng huy động của các ngân hàng thương mại, là nguyên nhân tạo ra những cơn sốt giá vàng ngoài vòng kiểm soát.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp kinh doanh vàng đã thực hiện tốt các quy định của Nhà nước về kinh doanh mua bán vàng miếng và tập trung phát triển sản xuất vàng trang sức - mỹ nghệ khi đầu tư hàng chục, hàng trăm tỷ đồng để sản xuất vàng trang sức, tạo ra nhiều việc làm trong lĩnh vực này.
Đặc biệt, theo ông Long, từ khi có Nghị định 24 đến nay, việc điều hành của NHNN được thực hiện theo hướng để thị trường tự điều tiết cung - cầu. Nhờ đó, Chính phủ không phải chi ngoại tệ nhập khẩu vàng để can thiệp thị trường như trước, ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối.
“Nhờ kiên định với mục tiêu chống 'đô la hóa, vàng hóa' của NHNN nên giá vàng không ảnh hưởng đến giá các loại hàng hóa khác, không ảnh hưởng đến tỷ giá ngoại tệ, tạo điều kiện cho sự ổn định của kinh tế vĩ mô”, ông Long cho hay.
Không thể phủ nhận tác động hiệu quả từ Nghị định 24, tuy nhiên, khi thị trường đã bình ổn, ổn định trở lại, ông Long cho rằng cần phải thay đổi. Bởi, qua hơn 10 năm thực hiện, một số quy định tại Nghị định 24 đã bộc lộ những bất cập, không còn phù hợp tại thời điểm này và cần phải thay đổi để cả người dân, doanh nghiệp, thị trường và nền kinh tế cùng hưởng lợi.
Thay đổi chính sách quản lý thị trường vàng
PGS.TS Ngô Trí Long phân tích, từ góc độ Nhà nước, Việt Nam đang quản lý thị trường vàng thiếu hội nhập, liên thông với thế giới, khiến chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới rất cao, đặc biệt là vàng SJC.
Khan hiếm và chênh lệch giá là miếng mồi béo bở cho tình trạng đầu cơ, buôn lậu vàng. Trong điều kiện hội nhập, thị trường mở cửa, Nhà nước không thể "đóng cửa" với hàng hóa này.
“Cả trong quá khứ và hiện tại, trên thế giới chưa có một ngân hàng trung ương nào có chính sách duy trì một thương hiệu vàng và độc quyền sản xuất vàng miếng.
Thực tế theo Nghị định 24, NHNN vừa thực hiện chức năng sản xuất và kinh doanh vàng vừa thực hiện chức năng bình ổn thị trường vàng, dẫn tới mâu thuẫn về mục tiêu và vai trò quản lý nhà nước của NHNH”, ông Long nói.
Thêm vào đó, thế giới đang chuyển hướng từ thị trường giao dịch hàng hóa vật chất truyền thống sang thị trường giao dịch hàng hóa kỳ hạn với các sản phẩm đầu tư tiện ích hơn (sản phẩm phái sinh, chứng chỉ quỹ,... ) thông qua Hợp đồng kỳ hạn, Hợp đồng quyền chọn. Trong khi đó, Việt Nam chỉ tập trung quản lý sản xuất và kinh doanh vàng vật chất. Ông Long cho rằng, việc quản lý như vậy đã làm cho danh mục sản phẩm đầu tư bị hạn chế.
Từ góc độ tổ chức, doanh nghiệp, vị chuyên gia kinh tế cho hay, các doanh nghiệp không bình đẳng trong hoạt động kinh doanh vàng miếng.
Còn từ góc độ người tiêu dùng, ông Long nhấn mạnh, việc độc quyền một thương hiệu khiến người dân phải bán vàng miếng các thương hiệu vàng khác mà họ đã mua nắm giữ từ bao lâu với giá rẻ hơn SJC có những thời điểm gần 15 triệu đồng/lượng, mặc dù chất lượng như nhau.
Chính sách độc quyền vàng đã làm cho thị trường vàng bị đẩy lên, gây bất lợi cho người tiêu dùng và nền kinh tế.
“NHNN chỉ thực hiện chức năng quản lý và hoạch định chính sách chỉ điều tiết dự trữ ngoại hối bằng vàng theo Pháp lệnh ngoại hối, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng mà không tham gia sản xuất kinh doanh hoặc điều tiết thị trường bằng các biện pháp hành chính, không trực tiếp can dự việc kinh doanh của các doanh nghiệp" - PGS.TS Ngô Trí Long nói.
Thêm vào đó, theo ông, nếu để doanh nghiệp tự xuất và nhập khẩu vàng thì luồng vàng ra - vào Việt Nam sẽ nhanh hơn, cân bằng được giá trong nước với giá thế giới.
“NHNN nên trả vàng về cho thị trường, tức là để cho thị trường - các công ty kinh doanh vàng tự xuất và tự nhập, còn NHNN chỉ làm nhiệm vụ giám sát về khối lượng, thậm chí giám sát giá cả khi cần thiết”, vị chuyên gia nêu.