Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng hành, giám sát của Quốc hội, sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và sự tham gia, ủng hộ tích cực của nhân dân, việc thực hiện các Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo và các chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số của giai đoạn trước.
Kết cấu hạ tầng kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường được quan tâm đầu tư góp phần làm thay đổi diện mạo vùng nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tín dụng chính sách xã hội phát huy hiệu quả; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện...
6 giai đoạn chính của hành trình giảm nghèo
Nhìn lại 6 giai đoạn chính của công tác giảm nghèo: 1992-1997, 1998 - 2000, 2001 - 2005, 2006 - 2010, 2012 - 2015, 2016- 2020, 2021-2025 nhằm chia sẻ kinh nghiệm trong hoạt động thẩm tra, giám sát của Ủy ban Xã hội về công tác giảm nghèo thời gian qua, ĐBQH Lò Thị Việt Hà đánh giá:
Hành trình 35 năm thực hiện đổi mới, công tác giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng. Việt Nam áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, bảo đảm mức sống tối thiểu gắn với mục tiêu phát triển bền vững; đã hoàn thành sớm mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về xoá đói, giảm nghèo, được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng về giảm nghèo trên thế giới.
Kết quả này có ý nghĩa rất to lớn, tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 22% năm 2005; 9,45% năm 2010, 7% năm 2015 và hết năm 2021 còn 2,23% (theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều).
Năm 2021, Chương trình tiếp tục thực hiện chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016-2020 và cũng là năm ban hành Nghị quyết số 24/2021/QH15 của Quốc hội: Phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025.
Nghị quyết số 24/2021/QH15 đã đánh dấu giai đoạn quan trọng trong chuyển đổi mục tiêu giảm nghèo, đó là “thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo; hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo vượt lên mức sống tối thiểu, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia, nâng cao chất lượng cuộc sống; hỗ trợ các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn”, đồng thời chuyển đổi từ giảm nghèo tiếp cận đa chiều sang giảm nghèo đa chiều, góp phần bảo đảm an sinh xã hội và thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.
Từ năm 2022, Chương trình mới thực hiện theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022-2025 quy định tại Nghị định số 07/2021/NĐ-CP của Chính phủ.
Để thực hiện Nghị quyết số 24/2021/QH15 của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các Bộ, ngành hữu quan, các địa phương đã nỗ lực triển khai các nhiệm vụ được Quốc hội giao, đạt được những kết quả bước đầu, nhất là việc đã hoàn thành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn, tổ chức thực hiện Chương trình ở cấp Trung ương; thành lập Ban Chỉ đạo các Chương trình mục tiêu quốc gia Trung ương và cấp tỉnh cùng với việc phân bổ nguồn vốn từ ngân sách trung ương thực hiện Chương trình.
Năm 2022 đều đạt và vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng XIII, Nghị quyết số 24/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình (Nghị quyết 24) và Quyết định 90/QĐ-TTg ngày 18/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình (Quyết định 90) đề ra; một số mục tiêu cụ thể đánh giá vào năm 2025 dự báo cũng có thể đạt được.
Cụ thể: tỷ lệ nghèo đa chiều giảm 1,83% (từ 9,35% xuống còn 7,52%), vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng XIII đề ra là tỷ lệ nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1 - 1,5% hằng năm; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm 1,17% (từ 5,2% xuống còn 4,03%), đạt mục tiêu Nghị quyết 24/2021/QH15 và Quyết định 90/QĐ-TTg đề ra là tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1,0 - 1,5%/năm; tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm 4,89% (từ 25,91% xuống còn 21,02% (khoảng 970.001 hộ)), vượt mục tiêu Nghị quyết 24/2021/QH15 và Quyết định 90/QĐ-TTg đề ra là tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm trên 3,0%/năm; tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo (74 huyện) giảm 6,35% (từ 44,97% xuống còn 38,62%), vượt mục tiêu Quyết định 90/QĐ-TTg đề ra là tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm từ 4-5%/năm. Tổng số hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm 56.041 hộ (từ 431.182 hộ xuống còn 375.141 hộ), chiếm tỷ lệ 20,54% trong tổng số hộ nghèo giảm cả nước trong năm 2022.
Về hoạt động thẩm tra Báo cáo của Chính phủ
Việc thẩm tra các báo cáo của Chính phủ được thực hiện theo quy định của Nghị quyết 24 (thẩm tra hằng năm). Hiện nay, Ủy ban chủ trì thẩm tra các báo cáo của Chính phủ về Kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025. Ủy ban luôn chủ động sớm xây dựng kế hoạch, đề cương gửi Chính phủ.
Thường trực Ủy ban cũng tổ chức các cuộc làm việc với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, các cơ quan có liên quan; tổ chức các đoàn giám sát, khảo sát tại địa phương hoặc gửi công văn đề nghị địa phương báo cáo; tổ chức các cuộc họp, làm việc với các chuyên gia; đề nghị các thành viên Ủy ban là đại biểu chuyên trách ở địa phương tiến hành giám sát, khảo sát và gửi báo cáo về Ủy ban.
Trên cơ sở báo cáo của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, các cơ quan liên quan, Thường trực Ủy ban dự thảo báo cáo thẩm tra, trong đó bám sát các quy định Nghị quyết của Quốc hội và đề cương của Ủy ban. Việc thẩm tra báo cáo của Chính phủ được tổ chức tại các Phiên họp toàn thể và trên cơ sở ý kiến của các thành viên Ủy ban, Thường trực Ủy ban nghiên cứu tiếp thu, hoàn thiện báo cáo thẩm tra và gửi các đại biểu Quốc hội nghiên cứu tại các kỳ họp Quốc hội.
Về hoạt động giám sát
Hằng năm, trên cơ sở chương trình giám sát của Quốc hội, Thường trực Ủy ban dự kiến các hoạt động giám sát của Ủy ban, xây dựng Nghị quyết về chương trình giám sát của năm tiếp theo và biểu quyết thông qua Nghị quyết tại Phiên họp toàn thể. Về cơ bản, các hoạt động giám sát của Ủy ban thực hiện theo quy định của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, cũng như Quy chế hoạt động của Ủy ban, bảo đảm thực hiện và tuân thủ điều phối chung của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thời gian và địa bàn giám sát.
Đối với giám sát Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, sau khi Nghị quyết số 24/2021/QH15 của Quốc hội ban hành và có hiệu lực, Quốc hội đã thành lập đoàn giám sát và triển khai Kế hoạch chi tiết số 345/KH-ĐGS ngày 24/11/2022 của Đoàn giám sát “Việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về các Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021- 2025, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030”.
Kinh nghiệm trong thẩm tra và giám sát công tác giảm nghèo bền vững
Qua việc triển khai hoạt động giám sát, theo thành viên Uỷ ban Xã hội, ĐBQH Việt Hà cho hay, Ủy ban đã rút ra một số bài học kinh nghiệm trong việc thẩm tra và giám sát công tác giảm nghèo bền vững tại vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam như sau:
Một là: Chuẩn bị từ sớm từ xa xây dựng kế hoạch thẩm tra, giám sát từ đầu năm, chủ động trong việc rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, phân tích đánh giá tiên độ triển khai thực hiện, nhận diện những hạn chế, vướng mắc, bất cập làm cơ sở để phục vụ cho Đoàn giám sát.
Hai là: Thành lập Đoàn giám sát ngay từ khi mới triển khai Chương trình được 1,5 năm sau khi Quốc hội phê duyệt Nghị quyết số 24/2021/QH15 của Quốc hội để đánh giá tình hình triển khai chính sách giảm nghèo, phân tích thuận lợi khó khăn, từ đó đề xuất kiến nghị hoàn thiện chính sách giảm nghèo bền vững.
Ba là: Tăng cường phối hợp với Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân trong hoạt động thẩm tra, giám sát. Huy động sự tham vấn của các nhà quản lý, chuyên gia, nhà khoa học, đánh giá thực tiễn đầy đủ, lắng nghe ý kiến của Nhân dân, của đối tượng trực tiếp chịu sự tác động của dự luật để đảm bảo tính phản biện, khách quan.
Bốn là: Triển khai Đoàn giám sát cần huy động sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học, người có kinh nghiệm trong công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo để tham gia Đoàn giám sát; tổ chức hội thảo, tọa đàm chuyên gia để tư vấn, đánh giá chính sách cho sâu sắc hơn.
Năm là: Thu hút sự tham gia tích cực của các thành viên Ủy ban trong hoạt động thẩm tra, giám sát. Điều phối các Đoàn giám sát để bảo đảm thành phần Đoàn giám sát tinh gọn, chuyên môn sâu. Đề nghị các đại biểu Quốc hội chuyên trách ở địa phương là thành viên Ủy ban chủ động thực hiện các nội dung giám sát và gửi báo cáo kết quả giám sát tới Thường trực Ủy ban.
Sáu là: Tổ chức Đoàn giám sát cần chuẩn bị kỹ nội dung, thực hiện lồng ghép các nội dung giám sát để tiết kiệm nguồn lực và thời gian; chú trọng bảo đảm việc điều hòa hoạt động giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội. Thực hiện hoạt động giám sát thực tế đến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách nhằm nắm bắt được cụ thể thực trạng vấn đề cần giám sát. Các đề xuất, kiến nghị giám sát, kết luận phiên giải trình cần phải cụ thể, bảo đảm tính khả thi, hiệu quả trong việc giám sát thực hiện kiến nghị giám sát, kết luận phiên giải trình.