Bắt đầu từ câu hỏi con gái tôi: Điểm bắt đầu của Internet (IE) Việt Nam từ đâu mà nó đem lại lợi ích Internet vạn vật (IoT) và kỳ diệu đến vậy. Câu hỏi của thế hệ Z, một thế hệ được coi là chỉ quan tâm nhiều đến tương lai đã thôi thúc tôi viết bài báo này. Bài báo sẽ tóm tắt lịch sử phát triển IE Việt Nam qua các chặng đường chính: 1. Mối quan hệ nhân quả giữa Kinh tế IE và Kinh tế số; 2. Lộ trình số hóa mạng viễn thông và hội nhập thành công của ngành Viễn thông; 3. Tiến trình IP hóa mạng lưới viễn thông và đưa Thế giới đến gần với Việt Nam; 4. Trở lại ba câu hỏi chiến lược chúng ta đang ở đâu – chúng ta định đi đâu – bằng bước đi chiến lược nào; 5. Sự kế thừa từ IPv4 đến IPv6 đến IoT và Kinh tế số.
Mục tiêu bài viết cho thế hệ Z nhận thức các giá trị cốt lõi của IE hơn là một mô tả máy móc khó nhớ về lịch sử IE của Việt Nam. Sau đây là các nội dung chi tiết.
1. Mối quan hệ nhân quả giữa Kinh tế IE và Kinh tế số.
Tiếp cận Internet từ giác độ động lực phát triển quốc gia, chúng ta có thể điểm lược các lợi ích chính của Internet đối với quốc gia các giác độ sau:
Tiềm năng kinh tế của cuộc cách mạng Internet
Internet có tiềm năng tăng tốc độ tăng trưởng năng suất theo nhiều cách khác nhau, nhưng củng cố lẫn nhau, bao gồm:
- Giảm đáng kể chi phí của nhiều giao dịch cần thiết để sản xuất và phân phối hàng hóa và dịch vụ;
- Tăng cường hiệu quả quản lý, đặc biệt bằng cách cho phép các công ty quản lý chuỗi cung ứng của họ hiệu quả hơn, giao tiếp dễ dàng hơn cả trong công ty và với khách hàng cùng đối tác;
- Tăng cường cạnh tranh, minh bạch hơn về giá cả và mở rộng thị trường cho người mua và người bán;
- Tăng hiệu quả của hoạt động tiếp thị và định giá;
- Ngày càng có nhiều sự lựa chọn, sự tiện lợi và sự hài lòng của người tiêu dùng theo nhiều cách khác nhau.
Giao dịch rẻ hơn
Thuộc tính quan trọng nhất của Internet cũng có thể là thuộc tính rõ ràng nhất: nó có thể truyền tải thông tin một cách nhanh chóng, thuận tiện và không tốn kém. Các giao dịch thông thường, bao gồm thanh toán, xử lý và truyền thông tin tài chính cũng như duy trì hồ sơ, có thể được xử lý ít tốn kém hơn với công nghệ dựa trên web. Sử dụng công nghệ Internet, nhiều công ty, đặc biệt là những công ty trong các ngành sử dụng nhiều dữ liệu như dịch vụ tài chính và chăm sóc y tế, có thể giảm chi phí sản xuất của họ.
Internet và quản lý hiệu quả
Việc sử dụng Internet như một công cụ quản lý có thể có tiềm năng đáng kể trong việc nâng cao hiệu quả trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế và có thể gây ra sự chuyển dịch cơ cấu đáng kể của những lĩnh vực đó trong quá trình này.
Nhiều lợi ích về hiệu quả tiềm năng đến từ việc sử dụng công nghệ dựa trên Web để quản lý chuỗi cung ứng hiệu quả hơn và giảm lượng hàng tồn kho. Những khoản tiết kiệm này có thể thể hiện trong nội bộ công ty, từ việc lập lịch trình tốt hơn đến chia sẻ thông tin trong toàn công ty, hoặc tương tác hiệu quả hơn với các công ty khác trong chuỗi cung ứng.
Làm cho thị trường trở nên cạnh tranh hơn
Một trong những đặc điểm chính của cuộc cách mạng Internet là khả năng làm cho toàn bộ hệ thống kinh tế, trong nước và quốc tế trở nên cạnh tranh hơn. Nếu giá của hàng hóa và dịch vụ được chỉ định rõ ràng có sẵn trên mạng, người mua có thể mua được ưu đãi tốt nhất trên một khu vực địa lý rộng và người bán có thể tiếp cận một nhóm người mua lớn hơn. Internet có thể đưa nhiều thị trường đến gần hơn với mô hình sách giáo khoa về cạnh tranh hoàn hảo của các nhà kinh tế học, đặc trưng bởi số lượng lớn người mua và người bán đặt giá thầu trong một thị trường có thông tin hoàn hảo. Kết quả sẽ là tỷ suất lợi nhuận thấp hơn, sản xuất hiệu quả hơn và sự hài lòng của người tiêu dùng cao hơn.
Tăng sự lựa chọn và sự tiện lợi
Với sự nổi bật của một số nhà bán lẻ Internet, chẳng hạn như Amazon.com, buy.com, và sự tăng trưởng theo cấp số nhân của doanh số bán lẻ trên Internet từ một cơ sở nhỏ, người ta có thể mong đợi các nhà phân tích dự báo sự gia tăng đáng kể trong cạnh tranh bán lẻ và năng suất.
Nhận ra tiềm năng của Internet
Điều gì sẽ quyết định mức độ mà những lợi ích tiềm năng của Internet - cả những cải tiến có thể định lượng được đối với năng suất và những lợi ích ít định lượng hơn của sự tiện lợi và cải tiến chất lượng - trên thực tế, sẽ thành hiện thực? Một phần, câu trả lời phụ thuộc vào mức độ lan truyền nhanh chóng của việc sử dụng Internet trong phần còn lại của dân số (“chiều rộng” của cuộc cách mạng Internet). Các doanh nghiệp vừa và lớn có thể đã sử dụng Internet ở một mức độ nào đó, mặc dù không nhất thiết phải rộng rãi hoặc hiệu quả. Việc sử dụng Internet phổ biến đến các cơ sở nhỏ có thể sẽ nhanh chóng, đặc biệt nếu các chính phủ khuyến khích việc sử dụng Internet, ví dụ như ưu đãi hoặc yêu cầu khai thuế trực tuyến.
Kinh tế học Internet
Tác động kinh tế của Internet có thể sẽ không quá đáng kể như những người bi quan tuyên bố, và không quá lớn như nhiều người đam mê mạng đề xuất. Tuy nhiên, vẫn có những lý do để tin rằng tác động của nó đối với nền kinh tế là rất quan trọng. Internet sẽ tiết kiệm đáng kể chi phí trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, dẫn đến tăng trưởng năng suất nhanh hơn. Nó cũng sẽ tạo ra giá thấp hơn cho người tiêu dùng, dẫn đến mức sống tăng nhanh hơn.
Kinh tế số
Nền kinh tế số là từ ghép của nền kinh tế và điện toán số, đồng thời là một thuật ngữ bao trùm mô tả cách các hoạt động kinh tế truyền thống (sản xuất, phân phối, thương mại) đang được biến đổi bởi Internet , World Wide Web và các công nghệ blockchain. Nền kinh tế số được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau là Kinh tế Internet, Kinh tế Web, Kinh tế Tiền điện tử và Nền kinh tế Mới. Do nền kinh tế số liên tục thay thế và mở rộng nền kinh tế truyền thống, nên không có sự phân định rõ ràng giữa hai loại hình kinh tế tích hợp. Nền kinh tế số là kết quả của hàng tỷ giao dịch trực tuyến hàng ngày giữa mọi người, tổ chức (doanh nghiệp, tổ chức giáo dục, tổ chức phi lợi nhuận) và các thiết bị máy tính phân tán (máy chủ, máy tính xách tay, điện thoại thông minh, v.v...) được kích hoạt bởi Internet, World Wide Web và các công nghệ blockchain. Nền Kinh tế số đang phát triển nhanh chóng thành Internet of Things (IoT), và không thể tồn tại ở dạng hiện tại nếu không có Internet.
Nền kinh tế số được hỗ trợ bởi sự phổ biến của công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) trên tất cả các lĩnh vực kinh doanh để nâng cao năng suất của nó. Sự chuyển đổi số của nền kinh tế đang thay đổi các quan niệm thông thường về cách cấu trúc doanh nghiệp, cách người tiêu dùng tiếp nhận hàng hóa và dịch vụ và cách các quốc gia cần thích ứng với những thách thức quy định mới.
2. Lộ trình số hóa mạng viễn thông và hội nhập thành công của ngành viễn thông.
Cũng giống như các ngành Điện lực, ngành Giao thông, ngành Viễn thông thuộc hạ tầng cần đi trước một bước để đảm bảo hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng kinh tế cần đi trước một bước để dẫn dắt nền kinh tế phát triển. Đến nay, chúng ta dễ dàng nhận thấy ngành Viễn thông đã đi trước và đem lại lợi ích cho nền kinh tế và đem lại lợi ích xã hội bằng cách giúp người tiêu dùng được tiếp cận dịch vụ rẻ hơn và thuận tiện, Nhà nước không phải mang gánh nặng nợ vay và đầu tư công như các ngành hạ tầng khác và thế hệ Z không phải chịu gánh nặng nợ nần của thế hệ trước chuyển lại trong sử dụng dịch vụ IE và viễn thông.
Trở lại thời điểm những năm 1986, trước yêu cầu đổi mới và hội nhập của nền kinh tế đã đặt ra thách thức đổi mới và hiện đại hạ tầng viễn thông. Câu hỏi khó nhất chính là “Tiền ở đâu” (Vốn) để hiện đại hóa ngành Viễn thông. Bối cảnh cấm vận cũng gây khó khăn cho Việt Nam trong tiếp cận công nghệ hiện đại của Thế giới.
Trước bối cảnh đó sự dũng cảm của Tổng cục trưởng Đặng Văn Thân đã giúp ngành Viễn thông có tiền để tái cấu trúc mạng hạ tầng viễn thông. Ông Thân đã dũng cảm đánh cược sự nghiệp chính trị của ngành để số hóa mạng viễn thông Việt Nam bằng việc xin với Trung ương cho phép được vay vốn của Amrobank để có tiền hiện đại hóa ngành Viễn thông. Sau hành động chiến lược đó chính là việc ký kết hợp tác kinh doanh (BCC) với OTC (Nay là Tesla) hình thành nên Công ty Viễn thông Quốc tế (VTI) để mở cánh cổng kết nối và vượt qua các cấm vận về công nghệ. Đặt vấn đề tại thời điểm đó, nếu chúng ta số hóa mạng lưới viễn thông, nhưng không giải quyết được bài toán công nghệ và kết nối Quốc tế thì chiến lược số hóa ngành Viễn thông coi như thất bại.
Việc hình thành VTI đã kết nối Việt Nam với Thế giới và mở ra tiền đề cho IE có cơ hội hình thành. Bên cạnh đó các hoạt động của VTI đã đem lại dòng tiền lớn hàng tỷ USD cho Việt Nam quay lại để hiện đại hóa mạng viễn thông nội địa (VTN). Ngày 31/3/1990, Công ty Viễn thông Quốc tế, tên giao dịch quốc tế là Vietnam Telecom International (VTI) được thành lập, là đơn vị trực thuộc Tổng cục Bưu điện. Ở thời kỳ đó, ngành Bưu điện vô cùng khó khăn về vốn đầu tư do ngân sách là rất nhỏ, nếu cứ trông chờ vào nguồn vốn của Nhà nước thì chắc chắn sẽ không có bước đột phát để đi lên từ một mạng lưới viễn thông nghèo nàn, lạc hậu. Làm gì để có vốn đầu tư trở thành nỗi trăn trở của Lãnh đạo Ngành Bưu điện lúc bấy giờ. Sau rất nhiều cân nhắc, quyết định lựa chọn viễn thông quốc tế làm khâu đột phá trong chiến lược phát triển ngành Bưu điện cho thời kỳ đổi mới đã được Lãnh đạo ngành đưa ra. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh với nước ngoài cũng được lựa chọn như một giải pháp đột phá giúp Ngành có được những nguồn ngoại tệ lớn để đầu tư cho hạ tầng, công nghệ cũng như giúp chúng ta tiếp cận, học hỏi kinh nghiệm của quốc tế. Việc ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) với đối tác của Australia là một bước ngoặt lịch sử. Kể từ ngày Hợp đồng kinh tế gốc ký giữa Tổng cục Bưu điện và OTC vào năm 1988, phía Việt Nam đóng góp 4 triệu USD, phía Australia đóng góp 9 triệu USD để xây dựng và khai thác 02 trạm mặt đất thông tin vệ tinh tiêu chuẩn A tại Hà Nội và TP. HCM. Hợp đồng hợp tác kinh doanh đã cung cấp vốn để VNPT thực hiện khoảng 500 dự án lớn nhỏ, vốn đầu tư của BCC không chỉ cung cấp cho các dự án viễn thông trong nước mà còn đầu tư tham gia xây dựng các tuyến cáp quang biển và trên đất liền. Đồng thời sự hợp tác đã đầu tư để mua dung lượng trên các tuyến cáp quang biển quốc tế bên ngoài lãnh thổ Việt Nam để kết nối chuyển tiếp lưu lượng điện thoại đi khắp các nước châu Á, châu Úc, châu Âu và châu Mỹ. Kết quả 15 năm BCC (1998 - 2002), nhờ việc sử dụng nguồn vốn có hiệu quả, VNPT có được một mạng lưới viễn thông tương đối hoàn hảo, rộng khắp, dung lượng lớn, cấu hình hiện đại, đồng bộ, đa phương tiện như: thông tin vệ tinh, cáp quang, hệ thống chuyển mạch hiện đại dùng báo hiệu số 7, làm cơ sở cho sự phát triển nhiều dịch vụ viễn thông quốc tế và trong nước. Đặc biệt ở giai đoạn đầu, chúng ta đã giải quyết được vấn đề thông tin liên lạc đi quốc tế và từ quốc tế về Việt Nam, điều đó đã hỗ trợ tốt cho môi trường đầu tư ở Việt Nam vào những năm 90 của thế kỷ XX, góp phần tích cực vào việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Như vậy, tư duy chiến lược là chủ động hội nhập Quốc tế trong ngành Viễn thông an toàn và bền vững đã là nguồn động viên để Lãnh đạo Việt Nam tiếp tục đổi mới ngành Viễn thông.
3. Tiến trình IP hóa mạng lưới viễn thông và đưa Thế giới đến gần với Việt Nam
Lộ trình phát triển đã hội tự giữa ngành Viễn thông và ngành Công nghệ thông tin với bằng chứng sự IP hóa mạng viễn thông. Thông qua việc chuyển tiếp sang mạng thế hệ mới trong Viễn thông (NGN). Sự IP hóa mạng viễn thông giúp IE cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn. Chuyển đổi mạng IP là quá trình hiện đại hóa mạng lõi của nhà khai thác mạng viễn thông, để chuyển mạng từ cuộc gọi thoại qua báo hiệu TDM trên cơ sở hạ tầng chuyển mạch kênh sang cuộc gọi VoIP qua báo hiệu SIP trên cơ sở hạ tầng chuyển mạch gói. Ghép kênh phân chia theo thời gian (Time-division multiplexing - TDM) là một phương pháp truyền và nhận nhiều tín hiệu đồng thời qua một kết nối chung, trong đó mỗi tín hiệu chỉ chiếm một phần thời gian trong một mẫu lặp lại và mạch đồng bộ chuyển mạch ở mỗi đầu của kết nối sẽ tái tạo lại từng tín hiệu rời rạc. Đây là phương pháp phổ biến cho phép thực hiện nhiều cuộc gọi thoại đồng thời trên một đường dây duy nhất trong cơ sở hạ tầng viễn thông vào nửa sau của thế kỷ XX.
Các nhà khai thác mạng và khách hàng của họ có thể nhận ra nhiều lợi ích từ việc thay thế các thiết bị chuyển mạch Class 5 cũ của họ và thay đổi từ cơ sở hạ tầng TDM và chuyển mạch kênh trong mạng lõi sang VoIP, SIP và cơ sở hạ tầng chuyển mạch gói:
- Cơ sở hạ tầng chuyển mạch gói và các kết nối đi kèm có thể rẻ hơn, nhỏ gọn hơn và sử dụng ít năng lượng hơn so với cơ sở hạ tầng chuyển mạch kênh. Một số thành phần và chức năng toàn IP cũng có thể được ảo hóa và chạy thậm chí còn rẻ và hiệu quả hơn trong môi trường đám mây.
- Các nhà khai thác mạng có thể cung cấp các ứng dụng và dịch vụ tiên tiến hơn qua các kết nối băng thông rộng.
- Người đăng ký thường trả ít hơn cho các dịch vụ VoIP so với các dịch vụ điện thoại truyền thống.
Giao thức Internet (IP) là một giao thức cung cấp một gói các bit (một gói hoặc sơ đồ dữ liệu) từ nguồn đến đích trên một mạng được gọi là mạng chuyển mạch gói, chẳng hạn như Internet. Gói tin được cung cấp đầy đủ thông tin để được vận chuyển đến đích. Không có kết nối cố định giữa nguồn và đích. Mạng không cần kết nối. Gói tin được vận chuyển từ một nút của mạng này sang nút kia đến đích. Việc phân phối gói không được đảm bảo. IP chỉ chuyển dẫn các gói riêng lẻ qua mạng. Để chuyển dẫn một thông điệp hoặc một khối dữ liệu lớn, phải sử dụng một giao thức khác để chia dữ liệu thành các phân đoạn nhỏ hơn. Hầu hết thời gian, giao thức TCP được sử dụng cho việc đó. Giao thức TCP đánh số các gói và cung cấp cho chúng một tổng kiểm tra, do đó đảm bảo rằng tổng lượng dữ liệu được gửi được nhận một cách chính xác. Sự kết hợp TCP / IP thường được nhắc đến khi nói về việc phân phối dữ liệu trên Internet. Mạng thế hệ tiếp theo (NGN) là một kiến trúc toàn IP dành cho mạng thoại sao chép các dịch vụ và tính năng gọi Loại 5 truyền thống. Việc triển khai NGN thường yêu cầu một bộ chuyển mạch hoặc tác nhân cuộc gọi cho các tính năng gọi và báo hiệu SIP, một cổng đa phương tiện cho kết nối TDM, một máy chủ ứng dụng điện thoại và một bộ điều khiển biên phiên để bảo mật và liên kết.
Trong giai đoạn này một người kế nhiệm mới chính là Tổng cục trưởng Mai Liêm Trực, là người kế nhiệm các sự định hướng chiến lược của ông Đặng Văn Thân. Các bước đi cụ thể của ông Trực gắn liền với các đột phá của ngành Viễn thông Việt Nam.
4. Trở lại ba câu hỏi chiến lược chúng ta đang ở đâu – chúng ta định đi đâu – bằng bước đi chiến lược nào.
Tư duy chiến lược của vị tư lệnh mới
Sự phát triển bùng nổ của Internet thực sự đưa nhân loại bước vào một thời kỳ mới. Vậy Internet là cái gì? “Du nhập” vào Việt Nam bằng “con đường” nào? Ở đâu? Thời gian nào? Ai là người có công tạo nền móng và cơ sở hạ tầng? Nhà cung cấp dịch vụ Internet đầu tiên là ai? Theo VietnamNet “Năm 1991, Giáo sư Rob Hurle, Đại học Quốc gia Australia cùng với ông Trần Bá Thái, Viện Công nghệ thông tin tại Hà Nội đã tiến hành thí nghiệm kết nối các máy tính ở Australia và Việt Nam thông qua đường dây điện thoại. Năm 1994, Viện Công nghệ thông tin tại Hà Nội (thông qua công ty NetNam) đã trở thành nhà cung cấp dịch vụ Internet đầu tiên tại Việt Nam, với dịch vụ thư điện tử dưới tên miền quốc gia .vn. Ngày 19/11/1997, Internet chính thức được cung cấp cho người dân cả nước. VNPT, Netnam là những doanh nghiệp đầu tiên cung cấp dịch vụ Internet. Dịch vụ được cung cấp trên hạ tầng mạng điện thoại cố định, tốc độ truy cập hạn chế”. Dần dần tìm hiểu, tôi cũng lần ra được manh mối “nhân vật chính của bộ phim lịch sử này” là Tiến sĩ Mai Liêm Trực – Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện, nguyên Thứ trưởng thường trực Bộ Bưu chính Viễn thông. Ông chia sẻ “Năm 1991, ông có cơ hội được tham dự Hội nghị Thông tin vệ tinh mang tầm quốc tế tại Mỹ và đã được giới thiệu về Internet. Cũng ở thời điểm đó, World Wide Web ra đời đã thôi thúc vị Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện nảy sinh ý tưởng phải mang Internet về Việt Nam. Cả một ê-kíp bao gồm các nhà khoa học công nghệ và viễn thông đã mừng rơi nước mắt khi lần đầu tiên Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi được email sang Thụy Điển. Đó cũng là động lực lớn lao để ông tin tưởng vào thành công của cuộc cách mạng do mình khởi xướng”. Không nhiều trong số gần 70 triệu người dùng Internet Việt Nam biết tới câu chuyện làm sao Internet “bùng nổ” và phổ biến đến mức trẻ lên ba cũng có thể dùng iPad tìm clip chúng thích trên Youtube như hiện nay.
Với tầm nhìn của mình, ông Trực xác định, đất nước sẽ không thể hội nhập và phát triển nếu không có Internet, thậm chí còn bị cô lập và trở nên tụt hậu. Vì lợi ích quốc gia, ông đã thuyết phục được các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Ông chia sẻ: “Tác động mạnh nhất tới quyết định của lãnh đạo Đảng và Nhà nước chính là niềm tin vào những con người trực tiếp thực hiện. Cái gì cũng có mặt lợi, mặt hại, anh phải hiểu bản chất vấn đề, hiểu một cách rõ ràng, cụ thể; anh phải dũng cảm giải trình, phải biết cách thuyết phục, giải tỏa những lo ngại để làm sao giúp các lãnh đạo thấy được việc mở cửa Internet sẽ tốt hơn là đóng kín”. Dù đã bị thuyết phục bởi nhiệt huyết của vị Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện và chấp nhận mở cửa Internet, Lãnh đạo Đảng và Nhà nước chỉ chấp nhận quản lý Internet được đến đâu thì mở cửa đến đó. Kết quả này được xem là thành công lớn đối với con người đã dành toàn bộ tâm huyết của mình cho Internet Việt Nam.
Khoảng thời gian sau ngày 19/11/1997 thực sự là một quá trình mất ăn mất ngủ của người “tư lệnh” cho Internet Việt Nam bởi “các cơn bão ngầm”, đó là thay đổi tư duy quản lý của các cơ quan nhà nước và người thực thi từ “năng lực quản lý phải theo kịp với yêu cầu phát triển” thay cho tư duy “quản lý được đến đâu, mở ra đến đó”; đó là việc chống độc quyền trong việc cung cấp dịch vụ Internet; đó là việc tạo các hành lang pháp lý cho Internet phát triển; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường viễn thông, công nghệ thông tin, nội dung số, sản xuất thiết bị… Với những chiến lược phát triển rõ ràng, cùng với những lộ trình được xây dựng kỹ càng, không ngại mất lòng - mất phiếu - mất ghế, không vì lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân và đặt lợi ích của Nhân dân lên trên hết, ông đã chiến thắng và vượt qua hết các cơn bão ngầm. Sau này ông có chia sẻ với VietTimes “Do Internet là lĩnh vực rất nhạy cảm và có thể có tác động mạnh về xã hội cũng như chủ quyền an ninh quốc gia nên nhiều người nhất là Lãnh đạo Đảng và Chính phủ lo ngại. Vì vậy, chúng tôi đã phải có nhiều cuộc thuyết phục với Lãnh đạo Đảng và Chính phủ về Internet. Sau đó, cơ quan quản lý nhà nước lúc này là Tổng cục Bưu điện phải ban hành được một loạt chính sách có liên quan như tự do hoá thị trường viễn thông và tháng 3/1997, Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 21/CP để ban hành chính sách tạm thời về quản lý và cung cấp dịch vụ Internet. Tiếp theo là các thông tư liên bộ với Bộ Văn hoá - Thông tin, Bộ Công an để quản lý Internet. Và tới tháng 11/1997, Việt Nam đã chính thức kết nối Internet với 4 nhà cung cấp là VDC, FPT, Saigon Postel và Netnam. Vì Internet còn mới quá nên chúng ta còn phải xem Internet vào Việt Nam như thế nào rồi sẽ tiếp tục điều chỉnh. Chúng tôi nhận được ý kiến chỉ đạo của Thường vụ Bộ Chính trị là “quản lý đến đâu, mở ra đến đó”. Vì thế, thời kỳ đầu thì Internet rất là chậm và thậm chí những dịch vụ Internet công cộng mà chúng ta quen gọi là Internet Cà phê còn không được cho làm. Có một lần, Bưu điện Phú Yên có gọi điện thoại cho tôi và thông báo việc một cửa hàng cà phê Internet bị công an đến tịch thu thiết bị. Bản thân tôi khi đó rất bức xúc nhưng không thể làm gì vì Nghị định số 21/CP không cho phép. Nhưng dù sao, tôi vẫn đánh giá việc Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký ban hành Nghị định này là một quyết định dũng cảm và ngành Bưu điện đã tạo ra được nhiều “phước” cho xã hội và người dân.
Chỉ sau đó 2 năm, Tổng cục Bưu điện đã bắt tay xây dựng và trình Chính phủ Nghị định mới để quản lý Internet và năm 2001, Nghị định số 55/2001/NĐ-CP đã được Chính phủ ban hành để chính thức quản lý Internet. Một trong những điểm lợi của Internet chính là báo chí vì với báo in, việc gửi ra nước ngoài mất cước phí tới 10 USD/kg và chưa kể đến khâu phát hành, rồi tới tay bạn đọc thì cũng đã chậm ít nhất 1 tuần. Nhưng với báo điện tử thì mọi thông tin là ngay lập tức trên toàn cầu. Đó là một trong những thực tiễn mà chúng tôi đã thuyết phục được lãnh đạo Đảng và Chính phủ để phải có chính sách mới trong quản lý Internet với phương châm mới là “quản lý phải theo kịp tốc độ phát triển”.
Bài học rút ra ở đây của vị Tổng cục trưởng là dám dẫn đầu và một lần nữa đưa Thế giới đến với Việt Nam bằng cách phát triển Internet ở Việt Nam. Cách làm của ông Trực lúc đó giống với Quy trình ADDI (Phân tích - Thiết kế - Phát triển - Thực hiện) được nhiều Lãnh đạo trên thế giới áp dụng. Cụ thể thay vì không quản được thì không mở, ông đã chấp nhận mở ra rồi quản theo thực tế giống như vị Tư lệnh ngành trước đã làm. Cú hích đó đã mở cửa Việt Nam ra thế giới và tạo động lực cho các nhà đầu tư các ngành khác tin cậy và ghi nhận các khát vọng thực sự hội nhập của Việt Nam.
Chân dung vị tư lệnh mới
Ông Mai Liêm Trực sinh năm 1944 tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh trong một gia đình có 8 người con, sau này có 3 người là “bộ trưởng” (ông Mai Kỷ là Bộ trưởng - Chủ nhiệm Ủy ban Dân số; ông Mai Liêm Trực là Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện; ông Mai Ái Trực là Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường). Cụ Mai Cù - Cha của ông - từng là Chánh văn phòng Ủy ban Kháng chiến Bình Định, Trưởng Ty Tài chính Bình Định và năm 1954 tập kết ra Bắc, sau đó làm trưởng một phòng nghiệp vụ của Bộ Tài chính. Mai Liêm Trực là người con theo cha tập kết ra Bắc. Năm 1963, Mai Liêm Trực được cử sang Đức học ngành Vô tuyến điện. Học xuất sắc, về nước chàng trai này ghi nguyện vọng công tác: "Đã ăn cơm của Đảng, của dân mòn răng nên về nước nguyện làm bất cứ điều gì". Nhưng câu đó bị nhiều người phê bình vì bị cho là mỉa mai chế độ phải ăn cơm độn ngô. Khi nhớ lại chi tiết này, ông cười bảo: "Đó thực tế của tôi, vì xa nhà khi mới 10 tuổi, ăn cơm dân nuôi cho đến lúc trưởng thành, cho nên giao việc gì tôi nguyện làm hết lòng, không nề hà, kén chọn. Suy nghĩ này gắn với cả đời tôi". Năm 1976 - 1979, ông bảo vệ luận án Tiến sĩ ngành Kỹ thuật Thông tin liên lạc, Đại học Kỹ thuật Dresden (Đức). Năm 1995 - 1997, ông làm Tổng Giám đốc Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Năm 1997 - 2002, ông làm Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện. Năm 2002 - 2005, ông làm Thứ trưởng thường trực Bộ Bưu chính Viễn thông; Năm 2003 - 2005 là Chủ tịch Liên đoàn Bóng đá Việt Nam.
Một thập kỷ trước, ông Mai Liêm Trực từng được bầu là nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất đối với sự phát triển Internet tại Việt Nam. Ông đóng vai trò đầu tàu trong việc thuyết phục và dám “thế chấp” chiếc ghế Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện của mình để tạo niềm tin cho Lãnh đạo Đảng và Nhà nước đưa Internet vào Việt Nam năm 1997. Ông có công lớn trong việc định hướng hiện đại hóa mạng lưới viễn thông Việt Nam, đưa ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam đuổi kịp bước phát triển của các nước trong khu vực. Tại Lễ trao giải thưởng Sao Khuê năm 2007 dành cho các đơn vị, cá nhân có đóng góp xuất sắc cho sự phát triển của ngành công nghệ phần mềm, công nghệ thông tin Việt Nam, ông Trực là cá nhân duy nhất được tôn vinh và trao giải thưởng Sao Khuê về lĩnh vực hoạch định và thi hành chính sách.
Từ năm 2007 đến nay, ông Trực đóng vai trò như một chuyên gia có uy tín phản biện chính sách, chia sẻ kinh nghiệm cho các doanh nghiệp, cơ quan quản lý tại nhiều hội thảo, hội nghị về lĩnh vực CNTT và Internet, hay thúc đẩy 3G, 4G và 5G sớm được cung cấp tại Việt Nam.
5. Sự kế thừa từ IPV4 đến IPV6 đến IoT và Kinh tế số.
Truyền cảm hứng của ông Trực
Nối tiếp của Internet, ông Trực muốn nói đến cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0). Theo ông, đây là cuộc cách mạng dựa trên nền tảng của số hoá và kết nối mà Internet vạn vật là một thành tố. CMCN 4.0 đã và đang tác động tới mọi lĩnh vực mà chúng ta khó có thể tưởng tượng hết được về những thành tựu của nó. Ông khẳng định, trong sản xuất công nghiệp, CMCN 4.0 sẽ làm được tính cá thể hoá sản xuất. Cụ thể là có thể may đo cho từng cá nhân với tốc độ như sản xuất hàng loạt hơn cả dây chuyền sản xuất hiện nay. Công nghệ in 3D là tạo ra sản phẩm đơn chiếc có chất lượng như sản phẩm sản xuất hàng loạt. Cá thể hoá còn là từng cá nhân có thể sản xuất và cung cấp dịch vụ trên phạm vi toàn cầu.
Tiếp đó là sự xuất hiện của robot sẽ làm thay đổi cơ cấu lao động. Những công việc sử dụng lao động giản đơn sẽ dần được máy móc thay thế. Thậm chí, robot còn tham gia vào những công việc của lao động bậc trung, thậm chí bậc cao chứ không chỉ là những lao động giản đơn. Thí dụ như luật sư sau này có thể khó có công ăn việc làm hơn vì toàn bộ các thông tin tư vấn đã được số hoá và máy tính với trí tuệ nhân tạo cũng hoàn toàn có thể tư vấn cho khách hàng. Thế rồi các ngành dệt may và kể cả nông nghiệp cũng sẽ có nhiều thay đổi khi robot được ứng dụng. Và rồi sẽ xuất hiện xe hơi không người lái, máy bay không người lái, tàu ngầm không người lái… Rồi có thể nói đến y học thì thay vì phải đi khám bệnh ở bệnh viện, phòng khám… người ta có thể mặc lên người một chiếc áo đặc biệt là mọi số liệu về nhịp tim, huyết áp… có thể được theo dõi 24/24 giờ hàng ngày. Và tất cả các số liệu đó đều được truyền qua Internet đến bác sĩ.
Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội với 3 cuộc cách mạng công nghiệp trước và với CMCN 4.0 thì đây là cơ hội cuối cùng. Ông chia sẻ với VietTimes: “Với các cuộc cách mạng công nghiệp trước, Việt Nam đã chậm hơn thế giới nhưng với cách mạng công nghiệp thứ 3 tuy có chậm hơn nhưng khoảng cách cũng không lớn. Riêng với Internet, chúng ta không chậm hơn và đó là điều kiện để chúng ta rút ngắn khoảng cách so với các nước. Với CMCN 4.0, tôi không muốn nói đó là cơ hội cuối cùng mà chỉ muốn nói rằng đó là thời cơ rất tốt để Việt Nam cùng đi với các nước trên một chuyến tàu, cùng làm công nghiệp 4.0 với các nước ở một lĩnh vực nào đó mà Việt Nam có thế mạnh về sản xuất, dịch vụ cũng như là ứng dụng thành tựu của cách mạng công nghệ số và kết nối vạn vật.
Việt Nam phải tranh thủ thành tựu của CMCN 4.0 để phục vụ sản xuất và đời sống của người dân. Đây là một cơ hội mà nếu bỏ lỡ thì chúng ta sẽ lại tiếp tục đi sau các nước. Đó chính là khát vọng của thế hệ trẻ, của các nhà khoa học hiện nay. Và đó cũng là khát vọng của đất nước từ Chủ tịch nước, Tổng Bí thư, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội đều đã có những tác động để cổ vũ cho CMCN 4.0. Nếu chúng ta làm được như vậy thì đó là may mắn cho đất nước để rút ngắn khoảng cách tụt hậu và có thể đàng hoàng tham gia chuyến tàu của thế giới với CMCN 4.0”.
Từ buổi sơ khai vào ngày đầu tiên Việt Nam chính thức hòa mạng Internet toàn cầu (19/11/1997) với chỉ vài nghìn người dùng, thì đến nay đã là gần 70 triệu. Việt Nam vẫn là một trung tâm đổi mới hấp dẫn khi nguồn vốn toàn cầu vẫn tiếp tục đổ vào. Trong báo cáo e-Conomy SEA 2021 vừa được Google, Temasek và Bain & Company công bố vào tháng 11/2021, đưa ra nhận định nền kinh tế Internet của Việt Nam sẽ lớn thứ hai Đông Nam Á, đạt 220 tỷ USD về tổng giá trị hàng hóa (GMV) vào năm 2030.
Sự kế thừa
Sự hội tụ giữa Viễn thông và Công nghệ thông tin ở mức độ cao đã đòi hỏi việc phát triển IE một lần nữa. Với cách tiếp cận đem tinh thần kinh doanh và sự quyết liệt của người lính, tân Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông đã kế thừa tư duy dám dẫn đầu và lấy thực tế kiểm nghiệm chân lý để chuyển đổi hệ thống IE từ IPv4 sang hệ thống IPv6.
Quyết định chiến lược này một lần nữa thúc đẩy sự phát triển của Internet Việt Nam nói riêng, lớn hơn chính là sự phát triển của Kinh tế Internet và Kinh tế số. Động lực đó đã lan tỏa và chuyển thành cảm hứng và niềm tự hào hùng cường Việt Nam trong việc chuyển đổi số và phát triển Kinh tế số trong đó vẫn có bóng dáng của Internet Việt Nam thông qua thành phần IoT trong chuyển đổi số và Kinh tế số.
IPv4 là phiên bản IP được người dùng Internet công nhận và sử dụng rộng rãi nhất. Đây là phiên bản IP đầu tiên được sử dụng để sản xuất trong ARPANET vào năm 1983. Nó sử dụng lược đồ địa chỉ 32 bit và có hơn 4 tỷ địa chỉ IP. IPv4 được coi là giao thức Internet chính và mang gần 94% tổng lưu lượng truy cập Internet. IPv6 là phiên bản IP mới nhất, còn được gọi là IPng (Giao thức Internet thế hệ tiếp theo). Do sự phân bổ không mang tính xây dựng của địa chỉ IPv4, nên chẳng mấy chốc đã dấy lên nỗi lo về sự thiếu hụt địa chỉ IPv4. IPv6 được triển khai để đáp ứng nhu cầu về nhiều địa chỉ Internet hơn. Ngoài ra, nó còn nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến địa chỉ IPv4. IPv6 sử dụng lược đồ 128-bit và có hơn 340 không gian địa chỉ không triệu tỷ duy nhất. IPv6 (Internet Protocol version 6 - Giao thức liên mạng thế hệ 6) là thế hệ địa chỉ Internet phiên bản mới, được thiết kế để thay thế cho phiên bản địa chỉ IPv4 hiện đang cạn kiệt, hết địa chỉ. Với 128 bit chiều dài, không gian địa chỉ IPv6 gồm 2.128 địa chỉ, cung cấp một lượng địa chỉ khổng lồ cho hoạt động Internet của thế giới.
Kết luận
Trong bài viết ngắn như lời tâm sự giữa các thế hệ, tôi mong muốn truyền đến con tôi động lực phát triển Kinh tế số và các giá trị cốt lõi thay vì cách tiếp cận triết học về lịch sử Internet Việt Nam. Bài viết cũng ghi nhận công lao của các thế hệ đi trước đã tạo nền móng rất vững chắc cho ngành Bưu điện – Thông tin và Truyền thông Việt Nam phát triển bền vững và đúng trật tự của Vũ trụ./.
Ngô Tấn Đạt