Đã từ lâu Chính phủ đã không ngừng quan tâm, đẩy mạnh xóa mù chữ cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số và miền núi, đặc biệt là trẻ em trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn trong vùng nhằm tạo điều kiện cho các em tiếp cận với các cơ hội một cách bình đẳng.
Kết quả Điều tra thu thập thông tin về hiện trạng kinh tế xã hội của 53 dân tộc thiểu số do Tổng cục Thống kê thực hiện tại hơn 56,4 nghìn thôn thuộc các xã vùng dân tộc thiểu số trên toàn quốc tính đến ngày 1/10/2019 đã cho thấy bức tranh rõ nét hơn về tình hình phổ cập cũng như cơ sở vật chất, điều kiện giáo dục dành cho trẻ em khu vực này.
Theo kết quả Điều tra, Việt Nam có trên 1,4 triệu trẻ em vùng dân tộc thiểu số trong độ tuổi học tiểu học - cấp học phổ cập xóa nạn mù chữ, tương đương độ tuổi từ 5-9 tuổi; trong đó, các dân tộc Tày, Thái, Khmer, Mường, Mông, Nùng là các dân tộc có trẻ em trong độ tuổi học tiểu học đông nhất.
Trong nhiều năm qua, nhờ sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước, các bộ ngành liên quan và các địa phương, công tác giáo dục, xóa nạn mù chữ cho trẻ em đồng bào dân tộc thiểu số đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Tỷ lệ trẻ em dân tộc thiểu số trong độ tuổi đi học phổ thông nhưng không đi học đã giảm gần hai lần, từ 26,4 năm 2009 xuống còn 15,5 năm 2019.
Mặc dù vậy, hiện nay ở Việt Nam vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định về sự bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục của trẻ em giữa các vùng, đặc biệt là với trẻ em dân tộc thiểu số và miền núi. Trẻ em đồng bào dân tộc thiểu số vẫn gặp nhiều khó khăn trên hành trình tiếp cận với con chữ khiến cho tình trạng mù chữ trong trẻ vẫn chưa được xóa bỏ hoàn toàn. Nguyên nhân chủ yếu là do sự thiếu thốn cơ sở vật chất, giao thông đi lại, hạn chế về dân trí... tại khu vực các em sinh sống.
Theo thống kê vẫn còn tồn tại tình trạng trẻ em trong độ tuổi tiểu học nhưng không được đi học. Hiện cả nước có 19/53 dân tộc thiểu số có tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường trên 20%, trong đó dân tộc Brâu có tỷ lệ cao nhất (35,4%), tiếp đến là dân tộc Xtiêng (35,3%). Dân tộc Sán Dìu và Tày có tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường thấp nhất trong 53 dân tộc thiểu số, tương ứng là 3,7% và 5,1%. Riêng cấp tiểu học, cứ 100 em trong độ tuổi đi học cấp tiểu học thì có khoảng 2 em không được đến trường. Trong đó, ở dân tộc Raglay là 3,1%, Gia Rai 2,9%, Kháng 1,9%, Mông 0,1%, Ngái 0,5%, Chăm 0,4%, Xtiêng 0,8%...; tỷ lệ trẻ đi học tiểu học đúng tuổi đạt 96,9%.
Những khó khăn về giao thông đi lại, hoàn cảnh gia đình, sự nghèo khó với những gánh nặng mưu sinh từ nhỏ cũng là một trong những nguyên nhân lớn ngăn cản trẻ em vùng dân tộc thiểu số và miền núi tiếp cận với việc học nhằm xóa nạn mù chữ: Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo của các hộ dân tộc thiểu số vẫn đang cao gấp 3,5 lần tỷ lệ nghèo và cận nghèo chung của cả nước; Số hộ dân tộc thiểu số nghèo chiếm 22,3%, hộ cận nghèo chiếm 13,2%, trên tổng số hộ dân tộc thiểu số của cả nước. Số điểm trường kiên cố và phòng học kiên cố của điểm trường vùng đồng bào dân tộc thiểu số lần lượt là 54,4% và 65,5%.
Mặt khác, tỷ lệ kết hôn cận huyết vẫn còn tồn tại thậm chí tồn tại với tỷ lệ cao cùng với những hủ tục lạc hậu chưa được bãi bỏ của một số dân tộc ít nhiều cũng làm ảnh hưởng đến sức khỏe, thể chất của trẻ, góp phần làm giảm cơ hội được đi học của trẻ em những khu vực đó, nhất là đối với trẻ em gái khi nạn tảo hôn vẫn còn diễn ra.
Trong bối cảnh phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, việc trẻ em nói chung và trẻ em dân tộc thiểu số và miền núi nói riêng không được tiếp cận với nền giáo dục có chất lượng cũng đồng nghĩa với việc đã tước đoạt một nguồn tăng trưởng tiềm năng trong tương lai của đất nước. Trẻ em không được đi học, không được tiếp cận với chữ viết, giáo dục không chỉ làm giảm tiềm năng cá nhân của các em mà còn kìm hãm trình độ dân trí, giảm các cơ hội bình đẳng và làm tăng các chu kỳ nghèo đói và bất lợi của mọi thế hệ và cả quốc gia.
Để hoàn thành chỉ tiêu trong các mục tiêu phát triển bền vững, với quyết tâm “không để trẻ em nào ở lại phía sau”, trong nhiều năm qua, Việt Nam đã rất nỗ lực thực hiện nhiều hành động thiết thực xóa nạn mù chữ trên cả nước nói chung và xóa mù chữ cho trẻ em dân tộc thiểu số và miền núi nói riêng bằng nhiều hình thức cả trực tiếp và gián tiếp.
Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng và ban hành nhiều cơ chế, chính sách ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi như: Quyết định 692/ QĐ-TTg ngày 04/5/2013 phê duyệt Đề án “Xóa mù chữ đến năm 2020”; Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 có quy định về chính sách miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; Nghị định số 116/2016/ NĐ-CP ngày 18/7/2016 quy định chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở xã, thôn bản đặc biệt khó khăn, Nghị định 57/2017/NĐ-CP quy định chính sách ưu tiên tuyển sinh, hỗ trợ học tập đối với trẻ mẫu giáo, học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số rất ít người;…
Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững được ban hành theo Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/05/2017 của Thủ tướng Chính phủ, nêu rõ 17 mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam đến năm 2030 mang nhiều ý nghĩa thiết thực trong công tác xóa mù chữ cho trẻ em.
Trong đó, nhiều mục tiêu và chỉ tiêu cụ thể nhắm đến giải quyết các vấn đề còn thiếu hụt của trẻ em dân tộc thiểu số và miền núi một cách toàn diện, tạo điều kiện cho các em được hưởng quyền lợi xã hội một cách bình đẳng như: Chấm dứt mọi hình thức nghèo ở mọi nơi có chú trọng đến trẻ em dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn; Đảm bảo dinh dưỡng, tăng cường thể chất, đảm bảo sức khỏe cho cả trẻ em dân tộc thiểu số và miền núi.
Qua đó tạo điều kiện ban đầu để trẻ em được tiếp cận với giáo dục và các cơ hội khác. Đặc biệt phải kể đến Mục tiêu số 4 về Đảm bảo nền giáo dục có chất lượng, công bằng, toàn diện và thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người trong đó có trẻ em dân tộc thiểu số và miền núi.
Duy Linh, Lê Na, Hà Sơn, Thanh Hùng, Huyền Sâm