Cùng với Ph.Ăng-ghen (Friedrich Engels), Mác đã xây dựng phép biện chứng duy vật và chủ nghĩa xã hội khoa học, đem lại cho nhân loại một công cụ vĩ đại để nhận thức và cải tạo thế giới. Đặc biệt, từ khi còn rất trẻ, Các Mác đã hé lộ những phẩm chất thiên tài của một nhà bác học và một nhà cách mạng chuyên nghiệp.

Các Mác sinh ra ở Trier, thành phố cổ kính thuộc phía Tây nước Phổ (nước Đức ngày nay) trong gia đình luật sư Hen-rích Mác (Heinrich Marx). Từ nhỏ, Các Mác đã bộc lộ phẩm chất thông minh với các sáng kiến trong những trò chơi của lũ trẻ. Cậu có khả năng kể lại một cách hình ảnh và sáng tác ra đủ mọi câu chuyện tưởng tượng và các câu chuyện cổ tích. Điều này đã khiến cậu trở thành linh hồn trong các trò chơi của lũ trẻ trong khu phố.

Mùa thu năm 1830, lúc 12 tuổi, Các Mác vào học ở trường trung học Tơ-ri-a. Quá trình học tập, Các Mác đã thể hiện là một học sinh thông minh, độc lập, giàu sức sáng tạo. Trong bài luận văn tốt nghiệp trung học, với chủ đề “Những suy nghĩ của một thanh niên khi chọn nghề”, Các Mác đã khiến thầy cô, bạn bè khâm phục và kinh ngạc khi nói về sự lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai. Mác viết: "Nếu một người chọn nghề mà người đó có thể làm được nhiều nhất cho nhân loại thì người đó sẽ không cảm thấy gánh nặng của nghề ấy, không phải một sự vui sướng ích kỷ, hạn chế và đáng thương mà hạnh phúc của người đó sẽ thuộc về hàng triệu người…"Tốt nghiệp trung học, Các Mác vào học khoa Luật trường Đại học Tổng hợp Bon; ngoài việc học tập luật, ông còn say mê nghiên cứu triết học, lịch sử, chính trị. Ngày 15/4/1841, khi mới 23 tuổi, Các Mác nhận được bằng Tiến sĩ triết học với luận án "Về sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit (Démocrite) và triết học tự nhiên của Êpiquơ (Épicure) tại trường Đại học Tổng hợp Jena.

Tháng 8/1844, Các Mác gặp Ph.Ăng ghen ở Pa – ri, nước Pháp. Bắt đầu từ đây, hai lãnh tụ của cách mạng vô sản thế giới đã tìm thấy sự đồng cảm về tư tưởng và lý tưởng cộng sản, đã tạo nên một tình bạn thủy chung, mẫu mực hiếm có. Tháng 2/1848, Các Mác và Ph.Ăng ghen cùng soạn thảo và xuất bản “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là văn kiện đầu tiên có tính chất cương lĩnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Hai ông đã tích cực tham gia các tổ chức cộng sản, tích cực đấu tranh chống xã hội tư sản và tiểu tư sản đàn áp, bóc lột nhân dân lao động; cùng nhau sáng lập ra lý luận về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản – chế độ mang lại hòa bình, bình đẳng, hạnh phúc cho các tầng lớp nhân dân lao động.

{keywords}
Suốt cuộc đời của mình cho đến khi qua đời, Các Mác đã vượt lên mọi trở ngại để đi thẳng đến mục tiêu của mình. Ông đã đấu tranh và đã chiến thắng với trái tim nóng bỏng, ý chí sắt đá và niềm tin mãnh liệt vào sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.

Các Mác là một thiên tài tư tưởng mà năng lực trí tuệ của ông xứng đáng được coi là trí tuệ của một người khổng lồ của thời đại mình. Tư tưởng và sự nghiệp của Các Mác đã vượt qua mọi thử thách của thời gian, được nhiều thế hệ nhắc đến với tất cả sự khâm phục, ngưỡng mộ và tôn vinh.

Suốt cuộc đời của mình cho đến khi qua đời, Các Mác đã vượt lên mọi trở ngại để đi thẳng đến mục tiêu của mình. Ông đã đấu tranh và đã chiến thắng với trái tim nóng bỏng, ý chí sắt đá và niềm tin mãnh liệt vào sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Không bao giờ ông nhân nhượng kẻ thù, lùi bước trước khó khăn. Các Mác mang hết công sức nghiên cứu khoa học để phục vụ sự nghiệp cách mạng. Ông tin tưởng mãnh liệt rằng: "Đối với khoa học, không có con đường nào bằng phẳng thênh thang cả, chỉ có những người không sợ chồn chân mỏi gối để trèo lên những con đường nhỏ bé gập ghềnh của khoa học mới có hy vọng đạt tới đỉnh cao xán lạn của khoa học mà thôi". Và ý chí, nghị lực, công phu lao động khổ luyện đó của Các Mác trong suốt cuộc đời đã để lại những thành quả vô cùng quan trọng.

Thứ nhất, về Triết học, Các Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử thế giới mà hạt nhân của nó là phép biện chứng duy vật. Ông khẳng định, lịch sử loài người trước hết là lịch sử phát triển sản xuất, lịch sử những phương thức sản xuất kế tiếp nhau, cũng tức là lịch sử của những người sản xuất của cải vật chất, lịch sử của quần chúng nhân dân lao động. Quần chúng nhân dân là động lực phát triển của lịch sử, là đội quân chủ lực của các cuộc cách mạng xã hội thay thế chế độ xã hội cũ, lỗi thời bằng chế độ xã hội mới, tiến bộ hơn. Đảng Cộng sản, chính đảng của giai cấp công nhân, có lý luận tiền phong soi đường, là lực lượng lãnh đạo quần chúng nhân dân làm cách mạng để phá bỏ chế độ áp bức, bóc lột cũ, xây dựng chế độ mới, chế độ cộng sản chủ nghĩa.

Thứ hai, về Kinh tế chính trị học, Các Mác đã tìm ra quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của xã hội tư bản. Một trong những phát hiện vĩ đại của Các Mác trong kinh tế chính trị học, là đã phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư. Các Mác chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa cao với chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chủ yếu tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Và đấu tranh giai cấp chính là động lực phát triển xã hội.

Thứ ba, về Chủ nghĩa xã hội khoa học, Các Mác đã phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Mác đã tìm ra quy luật vận động phát triển của xã hội và lực lượng xã hội có sứ mệnh tiêu diệt chế độ tư bản và sáng tạo xã hội mới, đó là giai cấp vô sản. Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản phải đi tới thành lập chuyên chính vô sản và dùng nó làm công cụ để xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Thứ tư, cống hiến đặc biệt của Các Mác là ông đã cùng Phriđơrich Ăngghen (Friedrich Engels) thành lập các tổ chức cộng sản đầu tiên trên thế giới như Liên đoàn những người cộng sản (1848), Quốc tế thứ nhất (1864), Quốc tế thứ hai (1889).

Thông qua hoạt động trong phong trào và tổng kết thực tiễn, ông đã đặt nền móng vững chắc cho học thuyết về xây dựng đảng của giai cấp công nhân quốc tế. Tuy còn sơ khai nhưng trong học thuyết của ông đã khẳng định đảng của giai cấp công nhân, đảng cộng sản phải mang trong mình bản chất của giai cấp công nhân. Ông cũng là người nêu ra những quan điểm đầu tiên về các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng cộng sản, thể hiện trong Điều lệ Liên đoàn những người cộng sản, Quốc tế thứ nhất, Quốc tế thứ hai với những nội dung chủ yếu về đoàn kết thống nhất trong Đảng, về mối quan hệ giữa các cơ quan lãnh đạo của Đảng với đội ngũ đảng viên, về kỷ luật của Đảng, về hệ tư tưởng của Đảng...

Những quan điểm này đã được Lênin kế thừa và phát triển, hoàn chỉnh học thuyết về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân ngày nay. Nhờ học thuyết về xây dựng Đảng cộng sản của Mác, Ăngghen và Lênin, những người cộng sản trên toàn thế giới đã có hơn một thế kỷ hình thành phong trào công nhân quốc tế với các Đảng cộng sản kiểu mới và đã góp phần làm thay đổi bản đồ chính trị trên thế giới với những cột mốc vĩ đại như thắng lợi Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), Chiến thắng Hồng quân Liên Xô đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức trong Chiến tranh Thế giới lần thứ II, những thành tựu xây dựng Chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô-Đông Âu và các nước khác trên thế giới trong thập niên 40 - 50 - 60 - 70 của thế kỷ XX.

Ngày nay, học thuyết của Mác nói chung và học thuyết về xây dựng đảng nói riêng không những còn nguyên giá trị mà còn được các Đảng cộng sản ngày nay bổ sung thêm những nội dung mới, làm cho những quan điểm dẫn đường của Mác vẫn tiếp tục tỏa sáng. 

Diệu Thúy