Được quyền tự bào chữa, cựu Bí thư Bình Dương Trần Văn Nam cho rằng, phải có kết luận của Phó Bí thư thường trực mới bán được 30% vốn góp tại liên doanh (Công ty Tân Phú) cho Công ty Âu Lạc.

Bị cáo Nam khẳng định, không ai có tư tưởng che giấu, hợp thức hóa những sai phạm của ông Nguyễn Văn Minh và Tổng Công ty SX-XNK Bình Dương.

“Về cái này đau lòng lắm. Không bao giờ có chuyện dung túng cho sai phạm. Trong lịch sử Bình Dương không bao giờ có chuyện này, giờ kết luận có chuyện che giấu, bao che, đau lòng lắm”, lời bị cáo Trần Văn Nam.

Cựu Bí thư Trần Văn Nam tại tòa. Ảnh: CTV

Vẫn theo lời tự bào chữa của ông Trần Văn Nam, không bao giờ bị cáo có suy nghĩ hợp thức hóa sai phạm. Bị cáo thừa nhận việc hiểu biết chưa đầy đủ, để các vấn đề của Tổng Công ty SX-XNK Bình Dương kéo dài cả năm.

“Nhưng chúng tôi không bao che, dung túng, dù ghi nhận Tổng Công ty SX-XNK Bình Dương có nhiều đóng cho tỉnh. Việc này còn liên quan đến vấn đề đầu tư ở Bình Dương, mong HĐXX xem xét thêm”, cựu Bí Thư Trần Văn Nam trình bày.

Băn khoăn vì bị cáo buộc lỗi cố ý

HĐXX cũng dành thời gian để các luật sư bào chữa cho cựu Bí thư Bình Dương Trần Văn Nam trình bày quan điểm.

Theo quan điểm bào chữa của luật sư Hoàng Văn Hướng, ông Trần Văn Nam bị cáo buộc thực hiện hành vi sai phạm là ký văn bản 3444 ngày 23/11/2012 áp đơn giá đất từ năm 2006 để tính thu tiền sử dụng đất giao cho Tổng Công ty 3/2 năm 2012.

Nhưng văn bản này không làm phát sinh thiệt hại cho tài sản nhà nước như kết luận của cáo trạng. Nếu xem xét thiệt hại từ hành vi của ông Nam gây ra, phải xem xét trong phạm vi thiệt hại (nếu có) từ việc tính tiền sử dụng đất tại khu đất này.

Các luật sư tại tòa. Ảnh: CTV

Theo luật sư, việc phê duyệt giá cho khu đất 43ha có phần lỗi của ông Trần Văn Nam, tuy vậy, cần xem xét hậu quả chính xác của lỗi này. Có căn cứ để cho rằng, thiệt hại do hành vi áp giá của ông Trần Văn Nam gây ra chỉ là thiệt hại đối với phần đất được giải phóng mặt bằng, đền bù và bàn giao sau năm 2006 đối với khu đất 43 ha.

Thời điểm ra văn bản 3444, có rất nhiều nhà đầu tư trong khu liên hợp phản đối cách tính tiền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định giao đất. Họ cho rằng đã hoàn thành nghĩa vụ bồi thường, GPMB từ lâu, việc chậm bàn giao là do Nhà nước không hoàn thành nghĩa vụ bàn giao đất như cam kết.

Thậm chí đã xảy ra khiếu nại hành chính liên quan đến sự việc xác định giá đất. Trong bối cảnh đó, các đơn vị chuyên môn của UBND đã nghiên cứu, đề xuất phương án xử lý. Và tin tưởng ý kiến của cơ quan chuyên môn, ông Nam đã ký văn bản 3444.

Quan điểm buộc tội của đại diện VKS cho rằng, ông Trần Văn Nam có một số hành vi che giấu và hợp thức hóa xảy ra vào năm 2017 và năm 2018 để hợp thức hóa hành vi sai trái, để khu đất 43 ha bị chuyển nhượng cho Công ty Âu Lạc.

Theo luật sư, nếu xem xét áp dụng tội danh theo điều 219 BLHS 2015 thì hậu quả có trước, hành vi vi phạm pháp luật xảy ra sau. Điều này là trái với nguyên tắc khoa học luật hình sự về cấu thành tội phạm. 

Quan điểm buộc tội của đại diện VKS cho rằng, bị cáo Trần Văn Nam đã vụ lợi, vun vén lợi ích cục bộ địa phương, cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Nhưng theo luật sư Hoàng Văn Hướng, nếu bị cáo cục bộ địa phương cho tỉnh Bình Dương thì lại quý cho Bình Dương quá.

Đồng bào chữa cho bị cáo Trần Văn Nam, luật sư Nguyễn Đình Hưng cho rằng, ông Nam nhận trách nhiệm người đứng đầu, nhưng chắc chắn không phải là tội danh như cáo buộc.

Thành tích của ông Trần Văn Nam nếu chỉ đưa con số 29 bằng khen, giấy khen thì chưa đủ, cần phải xét đến thành tựu Bình Dương trong thời gian ông Trần Văn Nam phụ trách.

Theo quan điểm bào chữa của luật sư, bị cáo Trần Văn Nam là lãnh đạo nhưng không quan sát, nắm bắt hết. Bị cáo sai đến đâu phải chịu nhưng là chịu gián tiếp, không thể cấu thành tội phạm cố ý như cáo buộc.

“Hành vi khách quan không mang ý thức chủ quan tư lợi cục bộ, nếu xảy ra hậu quả là trách nhiệm chứ không cố ý. Bị cáo rất băn khoăn vì bị cáo buộc lỗi cố ý”, lời bào chữa của luật sư Nguyễn Đình Hưng. 

Vẫn theo luật sư, khi xem xét trách nhiệm của cựu Bí thư Trần Văn Nam cũng cần lưu ý đến cơ chế, quy chế hoạt động của cơ quan Đảng.

Các bị cáo thừa nhận đã rất lúng túng khi hệ thống pháp luật không đầy đủ, không có quy định cụ thể. Vào thời điểm xảy ra vụ án, với những thực tế vướng mắc về việc giao đất diễn ra, đặc biệt những đường lối chính sách sử dụng áp dụng đối với mô hình “xây dựng TP mới” – là mô hình đầu tiên trên cả nước đã khiến các bị cáo gặp rất nhiều khó khăn.