Thời gian qua, tỉnh Nam Định chủ động xây dựng năng lực chủ động phòng, tránh và giảm nhẹ thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu thông qua hàng loạt các giải pháp. 

Trong đó, đã tính toán đến các yếu tố biến đổi khí hậu và nước biển dâng khi tiến hành rà soát, bổ sung, điều chỉnh chiến lược, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, phát triển kinh tế - xã hội. Chỉ đạo xây dựng bản đồ nguy cơ ngập lụt theo các kịch bản nước biển dâng ba cấp (tỉnh, huyện, xã). 

Các huyện ven biển chủ động chuẩn bị các phương án, điều kiện phòng, tránh và giảm nhẹ ảnh hưởng của thiên tai.

Các ngành, các địa phương, nhất là các huyện ven biển cũng chủ động chuẩn bị các phương án, điều kiện phòng, tránh và giảm nhẹ ảnh hưởng của thiên tai (bão, nước biển dâng, xâm nhập mặn) phù hợp với từng ngành, lĩnh vực. Chủ động cả phương án xử lý tình huống xấu nhất ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống của người dân và đảm bảo an ninh, quốc phòng.

Tỉnh đặc biệt quan tâm triển khai các dự án cải tạo, nâng cấp các tuyến đê biển, đê sông xung yếu; xây dựng cống ngăn mặn, giữ ngọt; nạo vét hệ thống sông, kênh mương; củng cố nâng cấp hệ thống trạm bơm bảo đảm tưới tiêu kịp thời; bảo vệ phục hồi rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển.

Đến nay, đã nâng cấp 64,7/76,6 km đê trực diện với biển, xây mới 8 cống qua đê, 80 mỏ kè giữ bãi bảo vệ đê và đang triển khai củng cố, nâng cấp 7,871 km đê Cồn Xanh.

Toàn tỉnh hiện có 3.092,37 ha rừng, trong đó 3.022,22 ha rừng trồng đã thành rừng, tỷ lệ che phủ đạt 1,83%, đã góp phần hạn chế tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, tình trạng bồi lấn bờ biển, chắn sóng, bảo vệ bờ biển, đê biển, phòng chống thiên tai. Tăng cường đảm bảo an toàn, bảo vệ đời sống và sản xuất của cộng đồng dân cư ven biển.

Công tác bảo vệ không gian thoát lũ trên các lưu vực sông, lòng sông; củng cố, xây dựng mới các công trình cấp, thoát nước của khu dân cư cũng đã được chú trọng. 

Thực hiện chỉ đạo của tỉnh, các ngành, các địa phương đã từng bước triển khai các hoạt động giảm nhẹ khí nhà kính, tăng cường khả năng hấp thụ khí nhà kính. Bảo vệ, phát triển các hệ sinh thái tự nhiên theo hướng phù hợp với tình hình phát triển và điều kiện thực tiễn tại địa phương, đơn vị. 

Ngành nông nghiệp và các địa phương đã chú trọng chuyển đổi cơ cấu, giống cây trồng, vật nuôi, điều chỉnh mùa vụ, kỹ thuật sản xuất nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu. Cơ cấu cây trồng được chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng chất lượng, có giá trị gia tăng cao, đáp ứng yêu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. 

Lĩnh vực chăn nuôi đã chủ động áp dụng các biện pháp quản lý, tận dụng chất thải, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Đặc biệt đã xây dựng, lắp đặt trên 18 nghìn công trình khí sinh học xử lý chất thải trong chăn nuôi. Triển khai hiệu quả 168 mô hình quản lý toàn diện chất thải chăn nuôi chống quá tải hầm khí sinh học. Thí điểm 7 mô hình sử dụng máy tách phân, sản xuất phân hữu cơ từ chất thải chăn nuôi, 2 mô hình tách phân kết hợp máy phát điện sử dụng khí sinh học, 4 mô hình phát triển kinh tế nông nghiệp tuần hoàn bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu trong xây dựng nông thôn mới. Các hộ dân đã chủ động tận dụng chất thải trong chăn nuôi xử lý làm phân bón cho cây trồng, thức ăn cho nuôi thủy sản, giảm đáng kể hoạt động xả chất thải ra môi trường, giảm phát sinh khí nhà kính…

Ngành công thương khuyến khích các doanh nghiệp tham gia hành động sản xuất sạch, tập trung đầu tư, đổi mới thiết bị công nghệ hiện đại. Ưu tiên phát triển, tăng tỷ trọng sản phẩm các ngành công nghiệp có công nghệ hiện đại như cơ khí chế tạo, sản xuất thiết bị máy móc, lắp ráp ô tô, linh kiện điện tử, thuốc chữa bệnh, chế biến thực phẩm, hàng tiêu dùng. Tích cực thúc đẩy việc sử dụng tiết kiệm năng lượng, phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo. 

Đình Thành, Lê Bích Thủy, Thu Hằng, Phùng Thu Thủy