Việt Nam hiện vẫn còn có sự chênh lệch, khác biệt khá lớn về tử vong mẹ, tử vong trẻ em, suy dinh dưỡng trẻ em ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, cao gấp 2 đến 3 lần so với vùng thành thị, đồng bằng; Tử vong mẹ giữa các dân tộc thiểu số so với người Kinh cao gấp nhiều lần. 

Nguyên nhân chủ yếu được chỉ ra là do việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc trước, trong và sau khi sinh của người dân cũng như chất lượng dịch vụ, nhất là ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo còn hạn chế, gặp không ít khó khăn.

Phong tục, tập quán trong chăm sóc, nuôi dưỡng bà mẹ, trẻ sơ sinh, trẻ em; tình trạng phụ nữ có thai không đi khám thai và quản lý thai, đẻ tại nhà vẫn còn khá phổ biến ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số,...

Một trong những mục tiêu mà Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025 (Chương trình) đặt ra là đến năm 2025, các địa phương tăng cường công tác y tế để đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe hiện đại, tiếp tục khống chế và tiến tới loại bỏ dịch bệnh ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi. 98% đồng bào dân tộc thiểu số có BHYT, 80% phụ nữ có thai được khám thai định kỳ, sinh con ở cơ sở y tế hoặc có sự trợ giúp của cán bộ y tế, giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng thể nhẹ cân xuống dưới 15%.

Bộ Y tế và các địa phương đã tích cực triển khai các hoạt động chuyên môn của Chương trình như: cung cấp các gói dịch vụ làm mẹ an toàn, dinh dưỡng 1.000 ngày đầu đời, tăng cường các hoạt động truyền thông, tư vấn trực tiếp, trong đó có hoạt động tổ chức Lễ phát động Tuần lễ làm mẹ an toàn.

Làm mẹ an toàn là một trong các nội dung quan trọng của công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản. Mục tiêu nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ và trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ tai biến sản khoa, giảm tình trạng tử vong mẹ và tử vong sơ sinh.

Chính vì vậy, các nội dung giáo dục sức khỏe về Làm mẹ an toàn đã được Tổ chức Y tế thế giới và nhiều nước quan tâm, trở thành nội dung quan trọng của Chiến lược chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em trên toàn cầu.

Giảm tử vong mẹ, giảm tử vong trẻ em, giảm suy dinh dưỡng trẻ em là những mục tiêu quan trọng của ngành y tế các nước trên thế giới, thể hiện sự phát triển y học, sự quan tâm và các chính sách đầu tư của nhà nước cho ngành y tế.

sinh san.png
Khám và tư vấn dinh dưỡng cho phụ nữ dân tộc thiểu số

Tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, dinh dưỡng

Năm nay, Tuần lễ Làm mẹ an toàn được Bộ Y tế triển khai từ ngày 1-7/10 với chủ đề: “Khám thai, sinh đẻ tại cơ sở y tế để an toàn cho mẹ, mạnh khỏe cho con”.

Mục tiêu của Tuần lễ Làm mẹ an toàn năm nay là tăng cường khả năng tiếp cận của đồng bào dân tộc thiểu số đối với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, dinh dưỡng cho bà mẹ, trẻ em góp phần giảm sự khác biệt về các chỉ tiêu sức khỏe, dinh dưỡng, tử vong mẹ, tử vong trẻ em giữa các vùng miền, hướng tới đạt được các mục tiêu phát triển bền vững vào năm 2030.

Đẩy mạnh các hoạt động truyền thông về Làm mẹ an toàn, tập trung vào nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi của người dân trong cộng đồng về chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ ở các vùng khó khăn.

Thu hút sự quan tâm của các nhà lãnh đạo, nhà hoạch định chính sách, người cung cấp dịch vụ và sự quan tâm của cộng đồng nhằm tăng cường sự tham gia của họ vào các hoạt động truyền thông và cung cấp dịch vụ về Làm mẹ an toàn.

Tăng cường các hoạt động cung cấp dịch vụ về Làm mẹ an toàn (chăm sóc trước, trong và sau sinh cho bà mẹ và trẻ sơ sinh), đặc biệt là cho những người dễ tổn thương, người có hành vi nguy cơ cao, người dân sống ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số.

Bộ Y tế yêu cầu trong "Tuần lễ Làm mẹ an toàn" năm 2024: Mỗi trạm y tế xã thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi tổ chức được ít nhất một hoạt động truyền thông về Làm mẹ an toàn; Cung cấp thông tin về Làm mẹ an toàn cho: 100% phụ nữ mang thai và phụ nữ sau sinh có mặt tại địa phương, ít nhất 30% số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ của xã, ít nhất 30% số gia đình - đặc biệt là người chồng của phụ nữ mang thai và sau sinh đang làm ăn, sinh sống tại xã.