Mặc dù thứ hạng NLCT của Việt Nam có sự cải thiện nhiều, nhưng khoảng cách trên hầu hết các trụ cột (chỉ số) của Việt Nam so với các quốc gia này còn khá xa. Dưới đây là một số khuyến nghị chính sách cho Việt Nam(*) để có thể rút ngắn khoảng cách này.

Thứ nhất, cần đẩy nhanh tốc độ cải cách doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và tăng cường cơ chế thị trường để tạo điều kiện phát triển khu vực tư nhân.

Đây được coi như là một chính sách ưu tiên khẩn cấp cho Việt Nam. Đề xuất này kêu gọi Chính phủ Việt Nam thúc đẩy việc cổ phần hóa và thoái vốn tại các DNNN; hợp lý hóa và tập trung hóa hệ thống quản lý tài sản công; loại bỏ sự méo mó của thị trường do ưu ái các DNNN để tạo ra sân chơi bình đẳng và khuyến khích áp dụng các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp (DN) hiện đại ở cả hai khu vực tư nhân và nhà nước trong một nền KTTT lành mạnh.

{keywords}
Ảnh minh họa.

Thứ hai, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường khả năng kết nối trong nước như một phương tiện để giảm bớt sự chênh lệch giữa các vùng, miền.

Quan trọng hơn, đề xuất này thúc đẩy sự phát triển của Hà Nội, từ đó làm chất xúc tác phát triển miền Bắc hơn. Đặc biệt, Hà Nội sẽ trở thành: 1- Một trung tâm kinh doanh và tài chính, nơi tất cả các doanh nghiệp, tập đoàn đa quốc gia hoạt động tại Việt Nam sẽ thành lập văn phòng đại diện để được hưởng lợi từ các hoạt động tư vấn kinh doanh và hỗ trợ dịch vụ hành chính từ các cơ quan có thẩm quyền; 2- Một cửa ngõ kết nối các tỉnh phía Bắc với nền kinh tế toàn cầu, với các cơ sở sân bay hiện đại, hệ thống giao thông đô thị loại một và liên kết kết cấu hạ tầng liền mạch với các trung tâm công nghiệp phía Bắc; 3- Một trung tâm du lịch với các dịch vụ vận chuyển và kết nối tiên tiến đến các điểm nóng du lịch khác ở miền Bắc; 4- Một thành phố sôi động với dân số trẻ sáng tạo, đổi mới, đam mê kinh doanh; 5- Một thành phố đáng sống cho người dân với các dịch vụ công hiệu quả, giá cả phải chăng với mức thu nhập cao do năng suất lao động được cải thiện.

Việc thực hiện thành công chương trình nghị sự nói trên sẽ trực tiếp cải thiện sinh kế của hơn bảy triệu người hiện đang sống tại Hà Nội. Hơn nữa, sự phát triển của Hà Nội như một trung tâm kinh doanh và tài chính sẽ khuyến khích thêm nhiều khu công nghiệp thành lập ở miền Bắc, nhằm khai thác triệt để lợi thế hậu cần và hành chính từ việc liên kết chặt chẽ với Thủ đô. Đồng thời, du lịch phía Bắc cũng sẽ được thúc đẩy nhờ kết nối quốc tế được cải thiện thông qua Hà Nội. Sự phát triển này sẽ tạo ra nhiều cơ hội kinh tế hơn cho người dân sống ở các tỉnh phía Bắc, giúp thu hẹp khoảng cách về chất lượng sống giữa miền Bắc và Nam.

Thứ ba, liên quan đến việc nuôi dưỡng các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV).

Kết quả nghiên cứu đã ghi nhận cam kết của Chính phủ trong việc hỗ trợ DNNVV bằng việc thông qua Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017, tuy nhiên nhóm nghiên cứu vẫn cho rằng chiến lược của Việt Nam trong việc hỗ trợ DNNVV đòi hỏi một sự thay đổi lớn về việc chuyển đổi mô hình. Các can thiệp thông qua các văn bản và hình thức giảm thuế không còn là phương thức duy nhất của Chính phủ, mặc dù chúng vẫn là các công cụ chính sách quan trọng. Thay vào đó, Chính phủ nên đóng vai trò tạo thuận lợi và dựa vào các chính sách định hướng thị trường để thúc đẩy DNNVV. Trong dài hạn, các sáng kiến chính sách như vậy sẽ mang lại hiệu quả bền vững hơn các biện pháp can thiệp tài chính, nhất là khi nợ công của Việt Nam đang gia tăng. Ngoài ra, các chính sách dựa trên thị trường có vẻ hiệu quả hơn vì chúng hướng tới giúp các DNNVV phát triển nội lực của mình thay vì chỉ giảm bớt những khó khăn trước mắt.

Cụ thể, các tác giả đề xuất thành lập Sáng kiến tương lai doanh nghiệp cho Việt Nam, với trọng tâm chính là nghiên cứu dựa trên thực tế nhằm hướng dẫn việc xây dựng các kế hoạch có thể thực hiện để nâng cao hiệu quả, năng suất và tiềm năng quốc tế hóa của các DNNVV. Viện Cạnh tranh châu Á (ACI) sẽ làm việc với các đối tác Việt Nam để cùng triển khai Chỉ số giám sát hiệu quả và theo dõi năng suất tại Việt Nam. Ngoài ra, các tác giả cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng năng lực kỹ thuật số như một điều kiện cần thiết cho các DNNVV phát triển mạnh trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Về mặt này, Chính phủ có vai trò then chốt trong việc nâng cấp kết cấu hạ tầng viễn thông và in-tơ-nét. Hơn nữa, điều quan trọng là phải thúc đẩy một hệ sinh thái hỗ trợ, trong đó Chính phủ, các chuyên gia và các định chế tài chính cùng hợp tác để giúp các DNNVV ứng dụng các giải pháp kỹ thuật số thích hợp dựa trên nhu cầu kinh doanh. Nỗ lực của Chính phủ phải nhận được sự tham gia tích cực từ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và các hiệp hội DN, hiệp hội ngành, nghề, những nơi có thể thông tin đến các DN thành viên các lợi ích của việc số hóa và những hậu quả có thể xảy ra nếu họ không thích ứng với thời đại kỹ thuật số.

Thứ tư, phác thảo chiến lược phát triển toàn diện lực lượng lao động Việt Nam.

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, những kỹ năng không phù hợp và lỗi thời của người lao động do sự đột phá công nghệ là hai trong số những thách thức chính đối với lực lượng lao động trong giai đoạn phát triển tiếp theo của Việt Nam. Do đó, nhóm nghiên cứu đề xuất khởi động Sáng kiến kỹ năng tương lai như một phong trào quốc gia với các kế hoạch hành động nhằm: 1- Khuyến khích các cá nhân đưa ra các quyết định sáng suốt về giáo dục và đào tạo; 2- Kết nối giáo dục và đào tạo kỹ thuật theo nhu cầu của ngành; 3- Thúc đẩy phát triển sự nghiệp dựa trên kỹ năng; 4- Thúc đẩy văn hóa học tập trong lực lượng lao động.

Trong số các chính sách mà nhóm tác giả đề xuất để hiện thực hóa các mục tiêu của Sáng kiến kỹ năng tương lai thì Mô hình thực tập công nghiệp có mục tiêu cùng với Kế hoạch thực tập - đào tạo - tuyển dụng (Industrial Internship Model with Placed Trained Employed - IIM-PTE) là một giải pháp quan trọng. Đây là một chương trình thực tập công nghiệp với lộ trình rõ ràng để làm việc sau khi tốt nghiệp cho các sinh viên có bằng cấp nghề hoặc bằng cấp khác thấp hơn. Với sự tham gia của ba bên liên quan là chính phủ, người sử dụng lao động và người lao động, IIM-PTE sẽ giúp tăng năng suất lao động thông qua đào tạo tại chỗ, tăng sự hấp dẫn của các trường dạy nghề như là một hướng khả thi để bảo đảm có được công việc tốt sau khi tốt nghiệp và góp phần giảm bớt sự thiếu hụt nghiêm trọng lao động lành nghề trong nền kinh tế Việt Nam.

Đề cập đến phát triển kỹ năng, sự xuất hiện của hệ thống dữ liệu lớn và việc phổ biến phân tích dữ liệu trong tất cả các lĩnh vực chỉ ra rằng lực lượng lao động cần được đào tạo về tư duy phản biện, kỹ năng số và phân tích dữ liệu. Hơn nữa, trình độ tiếng Anh và kỹ năng giao tiếp sẽ ngày càng trở nên quan trọng đối với người lao động Việt Nam để đạt được lợi thế cạnh tranh trong thị trường lao động của khu vực ngày càng hội nhập, cũng như tham gia nền kinh tế dịch vụ. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng nhấn mạnh sự cần thiết của Chính phủ trong việc khuyến khích sáng tạo và đặt nền móng cho một nền kinh tế tri thức có tính đổi mới. Về lâu dài, khả năng đổi mới sẽ sớm trở thành yếu tố quyết định của tăng trưởng kinh tế.

Thứ năm, nhấn mạnh tầm quan trọng của một cấu trúc kinh tế cân bằng, đa dạng hóa, nơi sản xuất và dịch vụ được phát triển song song và được hỗ trợ bởi một ngành nông nghiệp năng suất cao.

Điều này thể hiện tầm nhìn của Việt Nam để trở thành trung tâm sản xuất tiếp theo ở châu Á, một trung tâm tiềm năng cho các ngành công nghiệp dựa trên dịch vụ và là một quốc gia sản xuất nông nghiệp lớn trên thế giới. Trong nỗ lực đạt được các mục tiêu này, Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các cản trở đối với quá trình phát triển để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa thông qua một chính sách công nghiệp tiên phong.

Liên quan đến việc thúc đẩy tăng năng suất nông nghiệp, Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm của Ma-lai-xi-a, đặc biệt trong việc thúc đẩy lĩnh vực kinh doanh nông nghiệp cạnh tranh; phát triển quan hệ đối tác chặt chẽ giữa các cơ quan chính phủ, các DN kinh doanh nông nghiệp và các viện nghiên cứu; tích hợp các hộ sản xuất nhỏ vào chuỗi giá trị dựa trên nông nghiệp và cung cấp hiệu quả kết cấu hạ tầng, tín dụng và dịch vụ khuyến nông hiệu quả.

Việc thực hiện 5 đề xuất chính sách là một cuộc cấu trúc lại cơ bản mô hình tăng trưởng của Việt Nam. Nhiệm vụ to lớn này chỉ có thể đạt được nếu Chính phủ cam kết đẩy mạnh cải cách kinh tế và quan trọng hơn là phải có những bước đi cụ thể để tăng cường năng lực thể chế, bảo đảm bộ máy nhà nước đáp ứng được những yêu cầu của cải cách. Để đạt được điều trên, cần phải xây dựng một hệ thống hành chính công hiện đại, chuyên nghiệp và minh bạch, nơi có sự đào tạo và phát triển toàn diện của các quan chức chính phủ, giám sát hiệu quả, triển khai và quảng bá dựa trên kết quả dựa theo mức độ nhân tài. Chính phủ cũng cần không ngừng cải tiến truyền thông chính trị để xây dựng mối quan hệ với nhân dân và vận động tốt sự hỗ trợ của họ cho các chính sách phát triển của Chính phủ. Mô hình Hiệp hội Nhân dân thực hiện ở Xin-ga-po là một ví dụ hữu ích trong lĩnh vực này

Hằng Nga (lược trích)

(*) Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển cân bằng và bền vững cho Việt Nam của Vũ Tiến Lộc, Tan Khee Giáp, Lưu Nguyễn Triều Dương và Nguyễn Duy