Hệ thống cảng biển Việt Nam đã định hình với quy mô tổng chiều dài trên 90 km
Phát biểu tại hội thảo lấy ý kiến về “Quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu nước, vùng nước thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050” và Quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050”, thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Xuân Sang cho biết, sau 20 năm phát triển kết cấu hạ tầng cảng biển theo quy hoạch, hệ thống cảng biển Việt Nam đã định hình với quy mô tổng chiều dài trên 90 km, đầy đủ các công năng xếp dỡ, năng lực thông qua đạt khoảng 750 triệu tấn/năm.
“Các cảng biển chính trên cả nước đã đầu tư, nâng cấp, cải thiện căn bản về năng lực, chất lượng dịch vụ đảm bảo tiếp nhận tàu biển trọng tải từ trên 30.000 đến hàng trăm nghìn tấn, điển hình các bến cảng tại Bà Rịa - Vũng Tàu đã tiếp nhận được các tàu biển trọng tải đến trên 214.000 tấn (trên 18.000 Teus), cảng biển Hải Phòng tại Lạch Huyện tiếp nhận tàu trọng tải đến 145.000 tấn (sức chở khoảng 13.500 Teu)”, Thứ trưởng Sang nhấn mạnh.
Cũng theo lãnh đạo Bộ Giao thông Vận tải, hệ thống cảng biển Việt Nam hàng năm thông qua trên 90% hàng hóa xuất nhập khẩu, góp phần tạo thế chủ động cho Việt Nam ứng phó với các vấn đề kinh tế toàn cầu như dịch bệnh COVID-19, dịch chuyển làn sóng đầu tư thu hút mạnh mẽ dòng đầu tư nước ngoài và góp phần đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô.
Đối với cảng cạn (ICD), Thứ trưởng Sang cho hay, cảng cạn đang từng bước được quan tâm đầu tư tại các khu vực, hành lang vận tải tập trung lưu lượng hàng hóa container lớn như Móng Cái - Quảng Ninh, Đình Vũ - Hải Phòng, Quế Võ - Bắc Ninh, Gia Lâm - Hà Nội, Duy Tiên - Hà Nam, Nhơn Trạch - Đồng Nai…
“Các cảng cạn đã góp phần quan trọng trong tổ chức mạng lưới vận tải, tận dụng hiệu quả đặc thù, thế mạnh giao thông vận tải của từng vùng, đặc biệt là mạng lưới giao thông vận tải thủy nội địa để vận tải hàng hóa với khối lượng lớn, giá thành rẻ và ít ô nhiễm”, Thứ trưởng Sang cho biết.
Ông Lê Tấn Đạt, Phó Tổng giám đốc Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng công trình hàng hải (CMB) cho biết tính đến tháng 10/2022, cả nước có 296 bến cảng/chiều dài khoảng 103 km cầu cảng, gấp hơn 4,7 lần năm 2000.
Đồng thời, đã hình thành các cảng cửa ngõ quốc tế tại khu vực phía Bắc và phía Nam; tiếp nhận thành công tàu container đến 132.000 DWT tại khu bến Lạch Huyện (Hải Phòng), đến 214.000 DWT tại khu bến Cái Mép (Bà Rịa - Vũng Tàu).
Ngoài ra, các bến chuyên dùng quy mô lớn gắn với các khu công nghiệp, liên hợp luyện kim, lọc hóa dầu, trung tâm nhiệt điện than tiếp nhận tàu đến 200.000 DWT, hàng lỏng đến 150.000 DWT (tàu xuất sản phẩm), dầu thô đến 320.000 DWT, cơ bản đã đạt được các mục tiêu quy hoạch đến năm 2020.
Tổng nhu cầu đầu tư hệ thống cảng biển là 398.706 tỷ đồng
Cũng theo ông Đạt, dự kiến trong giai đoạn tới, tổng nhu cầu đầu tư hệ thống cảng biển là 398.706 tỷ đồng. Trong đó, đến năm 2025 là 147.164 tỷ đồng gồm nhu cầu vốn đầu tư cho hạ tầng hảng hải công cộng và nhu cầu vốn đầu tư cho bến cảng; đến năm 2030 bổ sung 251.542 tỷ đồng.
Đối với cảng cạn, ông Phạm Hoài Chung - Phó Giám đốc Trung tâm Tư vấn đầu tư phát triển giao thông vận tải (CCTDI) cho biết tính đến nay, cả nước đã đầu tư, công bố và đưa vào khai thác 10 cảng cạn. Ngoài ra, còn 6 cảng thông quan nội địa (ICD) đang hoạt động thuộc các vị trí được quy hoạch cảng cạn nhưng các Chủ đầu tư chưa thực hiện thủ tục chuyển đổi thành cảng cạn theo quy định.
Các cảng cạn, ICD phân bổ tập trung trên 5 hàng lang và khu vực kinh tế trong tổng số 15 hành lang và khu vực kinh tế có quy hoạch cảng cạn. Trong đó, hành lang kinh tế ven biển ở miền Bắc đã hình thành 4 trong tổng số 5 cảng cạn được quy hoạch.
Tổng khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu bằng container thông qua các cảng cạn và điểm thông quan nội địa (ICD) đang hoạt động hiện nay khoảng 4,2 triệu Teu/năm. Trong đó, 90% hàng hóa thông qua các cảng thông quan nội địa (ICD), bao gồm 6 cảng ICD đã quy hoạch thành cảng cạn và cả cụm cảng ICD Trường Thọ, Tp. Hồ Chí Minh...
Khối lượng hàng thông qua 10 cảng cạn đã công bố chỉ chiếm khoảng 10% do hầu hết trong số này đều mới được hình thành và nằm ở miền Bắc, ngoại trừ cảng cạn Tân cảng Nhơn Trạch ở Đồng Nai.
Trong giải pháp về đầu tư cho phát triển hệ thống cảng cạn, ông Chung đề nghị xem xét áp dụng đầu tư phát triển cảng cạn theo theo hình thức đối tác công tư (PPP) với các cảng cạn có quy mô lớn theo hướng Nhà nước tạo điều kiện về quỹ đất, đầu tư kết nối đường sắt với cảng cạn, hoàn chỉnh môi trường pháp lý và ban hành cơ chế, chính sách phát triển cảng cạn và tư nhân đầu tư hạ tầng, thiết bị và tổ chức quản lý, khai thác cảng cạn.
Đồng thời, mở rộng và đa dạng hóa các hình thức đầu tư theo hướng đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia đầu tư xây dựng và khai thác cảng cạn bằng các hình thức theo quy định của pháp luật...
Kết luận hội thảo, Thứ trưởng Nguyễn Xuân Sang cho rằng đây là quy hoạch có khối lượng nghiên cứu rất lớn và chuyên sâu, đến nay kết quả đã đạt yêu cầu so với yêu cầu đề cương. Từ trước đến nay, kết cấu hạ tầng luồng hàng hải do nhà nước đầu tư, còn kết cấu hạ tầng bến cảng do doanh nghiệp đầu tư. Tuy nhiên thời gian qua, nhiều địa phương đã chủ động sử dụng ngân sách địa phương để đầu tư kết cấu hạ tầng luồng hàng hải. Điều này tạo thuận lợi cho các cảng biển phát huy hiệu quả tiềm năng lợi thế, đồng thời cũng gánh vác cùng ngân sách Trung ương.
Như Sỹ, Kiều Oanh, Công Sáng