Nhưng đối với các nhà hoạch định chính sách, bài toán cần giải phức tạp hơn nhiều. Hàng loạt câu hỏi đặt ra: Để bảo đảm nhu cầu điện năng tăng nhanh, nếu giảm nhanh sự đóng góp của thuỷ điện, thì lấy gì thay thế?

Sự kiện đập Nhà máy điện Sông Tranh 2 ở Quảng Nam nứt sâu, nước thấm chảy thành dòng khiến dân tình vùng hạ lưu thảng thốt hoảng sợ, làm đồng bào cả nước chưa ngớt âu lo cả mấy tháng nay.

Dậy sóng từ Sông Tranh 2

Trách nhiệm các nhà thiết kế xây dựng hay các chủ thầu, câu trả lời vẫn chưa tường minh. Sự đánh giá nghiệm thu công tác hàn gắn vết nứt và chặn dòng nước thấm của hội đồng chuyên môn đang trong hồi kết, còn sự kiểm nghiệm của dân chúng trong thực tế cũng sắp bắt đầu.

Bỗng bất ngờ, động đất ngay ở vùng Sông Tranh 2 xảy ra. Nhiều ngày, nhiều đợt, nhiều cơn rung chấn với cường độ cao nhất 4,2 độ rich-te, đã gây rúng động và rạn nứt nhà cửa, làm dân chúng hoảng hốt.

Nguyên nhân nào, do thiên nhiên hay do con người, do cấu trúc địa chất tự nhiên hay do đứt gãy tạo ra bởi bản thân con đập và khối nước hồ chứa? Con đập Sông Tranh 2 có thể đứng vững trước thử thách cấp độ cao hơn?

Bất luận thế nào, một khi thiên tai cộng hưởng với sai sót vô tình hay lầm lỗi "cố ý" của con người, sẽ gieo ra tai hoạ khôn lường cho ngàn vạn con người bất hạnh vô tội.

Vì vậy, hơn lúc nào hết, lúc này, thuỷ điện - 1 trong những nguồn điện năng quan trọng đối với nước ta - được dư luận quan tâm và đưa ra cân nhắc, về thế mạnh và thế yếu, bàn bạc về phương hướng phát triển hợp lý trong những thập kỷ tới.  Không chỉ dân tình lo lắng mà hẳn các nhà hoạch định chính sách cũng phải thực sự quan tâm.


Con đập Sông Tranh 2 có thể đứng vững trước thử thách cấp độ cao hơn? Ảnh: Vũ Trung/ VietNamNet

Ưu thế không thể phủ nhận

Với một cách nhìn công bằng, thuỷ điện đã và vẫn đang tồn tại nhiều ưu điểm. Những ưu điểm đó tạo thành ưu thế nổi trội, nhất là giá thành điện thấp. Điều này xuất phát từ nguyên lý hoạt động của nhà máy thuỷ điện rất giản đơn, năng lượng của thuỷ điện chỉ lấy từ thế năng, do khác biệt về độ cao giữa hồ tích nước và vị trí tuốc- bin nước phát điện.

Là nhiên liệu chủ yếu của thuỷ điện, nước vừa rẻ vừa là hàng "nội địa", không phải nhập khẩu và không chịu sự tăng giảm giá cả như các loại nhiên liệu cho các loại điện năng khác như dầu khí, than đá, urani v.v...

Mặt khác, tuổi thọ của các đập nước, hay nhà máy thuỷ điện nói chung thường rất lớn. Một số nhà máy thuỷ điện  hiện nay đang hoạt động đã được xây dựng từ 50 đến 100 năm trước. Chi phí nhân công cũng thấp bởi vì nhà máy được tự động hoá cao và cần ít công nhân vận hành tại chỗ.

Đập thuỷ điện và hồ chứa nước, ngoài chức năng chính là phát điện thường xuyên, nhưng khi không cần thiết hoặc nhu cầu cung cấp điện thấp (giờ thấp điểm) có thể ngừng lại một cách dễ dàng để dành nước cho những giờ cao điểm. Một số chức năng kèm theo khác của các đập và hồ chứa là sử dụng cho mục đích thuỷ lợi, tức tưới tiêu, kiểm soát lũ ...

Các đập và hồ chứa nước thường nằm những vị trí có khung cảnh đẹp, thoáng đãng, thưa dân cư, nói cách khác đây là những địa điểm tuyệt vời về du lịch, thư giãn với các môn thể thao nước...

Tất cả những đặc điểm trên của các nhà máy thuỷ điện đều góp phần gia tăng chức năng sử dụng, tăng nguồn thu và kết quả là giảm giá thành khai thác, hay hạ giá tiền điện lấy từ túi người tiêu dùng

Cũng có thể "ghi điểm" thêm cho thuỷ điện, vì nó hầu như không đốt nhiên liệu hoá thạch, do đó không trực tiếp tạo nên khí nhà kính dioxit cacbon làm nóng khí hậu trái đất. Một công trình nghiên cứu xếp thuỷ điện vào vị trí phát khí nhà kính ít nhất, tiếp đến là điện gió, điện hạt nhân và thứ tư là điện mặt trời.

"Điểm trừ"- chỗ nào?

Cũng về tác động đến môi trường sống, các nhà nghiên cứu lại đánh "điểm trừ" rất nặng cho các dự án nhà máy thuỷ điện lớn vì nó có thể phá vỡ sự cân bằng của hệ sinh thái ở cả thượng lưu và hạ lưu của đập.

Ở thượng nguồn của đập, hồ chứa nước của nhà máy thuỷ điện nhấn chìm nhiều khu vực rộng lớn. Điều này gây những hệ luỵ bất ngờ. Chẳng hạn, các đập nước dọc theo bờ biển Bắc Mỹ đã làm giảm lượng cá hồi vì chúng ngăn cản đường bơi ngược dòng cá tìm chỗ để đẻ trứng, ngay cả khi đã có bậc thang di chuyển cho cá.

Môi trường hạ lưu cũng bị ảnh hưởng. Đập thuỷ điện có thể nạo sạch lòng và làm sạt lở bờ sông. Nó cũng làm thay đổi sự cân bằng của hệ động vật, gồm cả việc gây hại tới một số loài.

Ngược với đánh giá của thời đầu, các nghiên cứu khảo sát gần đây đã chứng tỏ, các hồ chứa của các nhà máy thuỷ điện ở vùng nhiệt đới có thể sản sinh ra một lượng lớn khí methane và cả dioxit cacbon do các rừng cây bị ngập nước, mục nát trong một môi trường hiếm khí.

Có trường hợp khí gây hiệu ứng nhà kính phát ra do đập có thể cao hơn những nhà máy nhiệt điện thông thường!

Một tác hại khác của đập thuỷ điện là việc tái định cư dân chúng sống trong vùng hồ chứa dẫn đến những tổn thất tinh thần to lớn, khó tính ra con số tiền bạc hao tốn cụ thể.

Đặc biệt, có trường hợp chôn vùi vĩnh viễn cả một nền văn hoá dưới lòng hồ. Có thể kể ra các trường hợp điển hình đã xảy ra ở các đập thuỷ điện sau đây: Đập Tam Hiệp (Trung Quốc), Clyde ở New Zealand, Ilisu ở Thổ Nhĩ Kỳ v.v...

Và đặc biệt nhất, một số đập thuỷ điện đã từng hoặc đang đe doạ gây ra thảm hoạ kinh khủng đối với con người.

Thực vậy, với những con đập thuỷ điện lớn, nếu để xảy ra sai sót hoặc cẩu thả trong quy hoạch, thiết kế hay thi công, hoặc không khảo sát đầy đủ cấu tạo địa chất và lường định chính xác cấp độ động đất có thể xảy ra trong địa bàn nhà máy, sẽ gây ra thảm họa khôn lường cho các khu dân cư ở phía hạ lưu.

Trong lịch sử ngành thuỷ điện toàn cầu đã từng xẩy ra những thảm hoạ kinh hoàng. Chẳng hạn, do vị trí địa chất không phù hợp, hồ chứa nước phía sau đập Vajont, nước Ý vào năm 1963 đã bị một trận lở đất lớn ập xuống, tạo nên đợt sóng thần quét qua đỉnh đập và lao xuống thung lũng bên dưới. Và kết quả 2000 dân thường chết.

Nhưng nếu tính về thiệt hại nhân mạng đối với một nhà máy thuỷ điện, sự cố vỡ Đập Bản Kiều, trên sông Ru, tỉnh Hà Nam (Trung Quốc) có thể xếp vào số 1.

Với đập này, nhà máy thuỷ điện đạt công suất khổng lồ đến 18 Gega-oat GW, tương đương 20 lò phản ứng hạt nhân. Sự cố xảy ra 2 lần trong năm 1975. Lần đầu, con đập đã bị vỡ và thiệt hại cũng khá nặng nề.

Sau khi vừa sửa chữa và xây lại, 1 cơn lũ lớn đã làm đập vỡ toang. Hậu quả hết sức nặng nề, mãi đến năm 2005 mới được công bố: 175.000 người thiệt mạng (26.000 người chết trực tiếp vì lũ lụt và 145.000 người chết do dịch bệnh và nạn đói sau đó), trên 11 triệu người mất sạch nhà cửa do 5 triệu ngôi nhà bị phá hủy.

Hậu quả đó lớn hơn bất kỳ thảm hoạ nhà máy điện nào trong lịch sử, kể cả nhà máy điên hạt nhân và chỉ có thể so sánh với các vụ nổ bom nguyên tử Hiroshima, Nakasaki ở Nhật trong thế chiến II.

Sông Tranh 2, một "phép thử vàng"

Thuỷ điện dù là một dạng điện năng thuộc loại cổ điển nhất, cho đến nay dạng vẫn còn có vai trò quan trọng, chiếm đến 20% điện lượng của thế giới. Ở một số nước nó chiếm ưu thế.

Chẳng hạn, ở Na-uy thuỷ điện chiếm gần như tuyệt đối, ở Iceland đạt tới 83% nhu cầu điện năng quốc gia, ở Áo hơn 70% nhu cầu, ở  Canada chiếm hơn 70% tổng sản lượng (theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia).

Nhưng, đối với các nước đang phát triển, theo nhiều nhà hoạch định chính sách năng lượng, thuỷ điện không còn là 1 sự lựa chọn chủ yếu.

Lý do: Có thể ở một số nước, phần lớn các địa điểm tiềm năng thuỷ điện đã bị khai thác rồi, hay về mặt môi trường, không thể khai thác thêm nữa. Riêng ở Việt Nam thuỷ điện đến nay được xem là đã tận dụng đến gần hết các nguồn sông lớn và trung bình.

Tình hình đó cũng đã phản ảnh trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020, có xét đến năm 2030 (gọi ngắn là Quy hoạch điện VII, viết tắt là QHĐVII hay Tổng sơ đồ VII, viết tắt TSĐVII) đã được Chính phủ phê duyệt ngày 21/7/2011 trong Quyết định số 1208/QĐ-TTg.

Theo TSĐVII, tổng sản lượng điện tăng nhanh từ năm 2010 đến 2030, đồng thời giảm vai trò của sản lượng thuỷ điện như sau:

- Năm 2010, tổng sản lượng điện/ năm: 100,017 tỷ kWh, thuỷ điện chiếm: 32,3%,

- Năm 2020, tổng sản lượng điện/ năm: 330-362 tỷ kWh, thuỷ điện chiếm: 19,6%,

- Năm 2030, tổng sản lượng điện/ năm: 695 - 834 tỷ kWh, thuỷ điện chiếm: 9,3%.

Khi nhìn thấy những nguy cơ to lớn do sự xây dựng các nhà máy thuỷ điện mang lại, không ít người lo lắng và chỉ muốn đẩy nhanh tốc độ giảm vai trò của thuỷ điện, đơn giản là xoá bỏ quy hoạch xây dựng thêm các nhà máy thủy điện mới, thậm chí đình chỉ một số nhà máy đã xây nhưng tiềm ấn cao các thảm hoạ. Trường hợp Nhà máy Sông Tranh 2 là một điển hình nóng bỏng hiện giờ.

Sự giảm dần vai trò thuỷ điện như trên là phù hợp với quy luật và tình hình chung trên thế giới. Nhưng vấn đề còn lại là tốc độ giảm như trên là hợp lý hay chưa.

Khi nhìn thấy những nguy cơ to lớn do sự xây dựng các nhà máy thuỷ điện mang lại, không ít người lo lắng và chỉ muốn đẩy nhanh tốc độ giảm vai trò của thuỷ điện, đơn giản là xoá bỏ quy hoạch xây dựng thêm các nhà máy thủy điện mới, thậm chí đình chỉ một số nhà máy đã xây nhưng tiềm ấn cao các thảm hoạ. Trường hợp Nhà máy Sông Tranh 2 là một điển hình nóng bỏng hiện giờ.

Nhưng đối với các nhà hoạch định chính sách, bài toán cần giải phức tạp hơn nhiều. Hàng loạt câu hỏi đặt ra: Để bảo đảm nhu cầu điện năng tăng nhanh, nếu giảm nhanh sự đóng góp của thuỷ điện, thì lấy gì thay thế?

Áp đặt biện pháp tiết kiệm điện về thực tế không thể nhanh chóng và giải quyết triệt để vấn đề cân bằng. Tăng nhiều hơn nhiệt điện lại gặp sự nguy hiểm về môi trường phát thải khí nhà kính.

Tăng nhanh các dạng năng lượng sạch như điện gió và điện mặt trời sẽ gặp khó khăn về tính kinh tế và công nghệ. Nếu muốn đưa điện hạt nhân vào sớm hơn cũng đâu dễ, hơn nữa với loại điện năng này không nên đốt cháy giai đoạn.

Kết hợp hài hoà hai xu hướng trên hẳn là đối sách thích hợp. Nhưng dù hài hoà thế nào thì sự giảm thiểu những hệ luỵ to lớn của các nhà máy thuỷ điện đã xây, đang xây và sẽ xây là vấn đề cấp bách nhất.

Và lời giải trước mắt cho Nhà máy thuỷ điện Sông Tranh 2 hiện giờ trở thành một phép thử vàng cho tính đúng đắn, tính hợp lý của chiến lược phát triển nguồn thuỷ điện trong tổng sơ đồ điện năng của đất nước trong những thập kỷ tới đây.

Trần Minh