Những học trò của cố GS Trần Quốc Vượng nhớ về ông như một người thầy bước vào nghề sư phạm từ giữa những thập niên 50 của thế kỷ XX, nhưng lại là người có tư duy, phương pháp giáo dục đại học “cập nhật”, “hiện đại”, ẩn sau những cách dạy, cách truyền kiến thức không hề “kinh viện”.
“Các con ơi chết rồi”
Đây là một trong nhiều câu nói của cố GS Trần Quốc Vượng mà PGS.TS Lâm Thị Mỹ Dung – một trong những học trò, và sau này là đồng nghiệp, thân thiết của thầy rất nhớ.
“Sinh thời thầy thường nói “Mọi sự mơ hồ hơn là ta tưởng”. Không có một ranh giới nào mà có thể phân tách ra được. Bây giờ để chúng ta chỉ đích danh thế nào là “Phong cách Trần Quốc Vượng” thì có lẽ mỗi học trò của thầy, cũng như mỗi người biết thầy sẽ có một cách cảm nhận riêng của mình. Nhưng tôi cho rằng, bên trong phong cách có vẻ phong trần đấy là một con người cực kì nghiêm túc về khoa học”.
|
GS Trần Quốc Vượng khảo sát một bia ký ở chùa Quan Thánh làng Lỗ Giáng, phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ. (Ảnh chụp năm 2003). |
Sau thời gian được học và làm việc với GS Trần Quốc Vượng, “bài học” mà bà Dung rút ra là “Khi đi điền dã, cứ đến 12h trưa, dù nhìn thấy bất cứ di tích nào tôi cũng không dám báo thầy nữa. Bởi vì nếu tôi chỉ cho thầy thì có lẽ phải đến 2, 3h chiều mới được ăn trưa.
Lúc đầu tôi không có kinh nghiệm, cứ nhìn thấy cái gì là lại hớn hở “Thầy ơi”. Và sau đó rút kinh nghiệm tôi không báo nữa, cứ đến giờ nghỉ là thôi. Cố gắng đi thế nào để cho thầy đi lướt qua nó đi.
Hay có những bữa ăn không ngon được vì thầy chưa đọc được một chữ nào trên tấm bia. Thầy hỏi rất nhiều người, dằn vặt rồi tra cứu. Thâm chí đến ngay hôm sau khi đọc được rồi thì thầy mới bảo “Các con ơi chết rồi”, tức là lúc ấy đã khám phá ra được từ đấy và cảm thấy rất là thỏa mãn”.
Một điều về người thầy của mình mà bà Dung muốn nhắc tới nữa là “Tinh thần Khoa học dân chủ”. “Thật sự là thầy trò khi đi điền dã, hay bất cứ đâu thầy cũng lắng nghe ý kiến của học trò, người dân. Một phong cách điền dã rất hay mà chúng tôi học được là đi đâu cũng hỏi đến 3, 4 lần. Không bao giờ thầy hài lòng khi chỉ hỏi 1 câu, địa danh thì càng hỏi nhiều người.
Lúc đầu tôi rất khó chịu vì hỏi 1 người thôi chứ, giữa trưa nắng mà hỏi nhiều thế. Về sau tôi mới biết là đi như thế đặc biệt là những vùng có tiếng nói hơi khác thì có thể mỗi người sẽ có một cách phát âm khác nhau nên cần có những sự kiểm chứng. Nhiều người đã nói đến “phong cách điền dã” của Trần Quốc Vượng, nhất định là không được “mớm cung””.
“Một di sản quan trọng nhất mà một người thầy để lại đó chính là thế hệ học trò. Thế hệ đó tiếp thu được của thầy những phong cách về giảng dạy và nghiên cứu sau đó lại truyền bá cho những thế hệ mai sau” – bà Dung cảm động chia sẻ.
Cái tình của người thầy
Còn đây là kỷ niệm của ông Nguyễn Quốc Tuấn (Viện Nghiên cứu Tôn giáo).
Ông Tuấn cho biết năm 1991 ông trúng vào lớp nghiên cứu sinh để làm luận án tiến sĩ. “Chúng tôi được học nhiều chuyên đề nghiên cứu sinh, trong đó có môn của GS Trần Quốc Vượng dạy là Lịch sử văn hóa, đại cương văn hóa Việt Nam.
GS Trần Quốc Vượng và đồng nghiệp |
Thế là thầy dạy trò học say sưa, quên sự đời. Cuối môn GS Trần Quốc Vượng ra đề thi: “Hãy lấy một ví dụ trong văn hóa Việt Nam để chứng minh bản sắc văn hóa Việt Nam”. Tôi bắt tay làm một bài thi chưa từng có, vì thi nhưng được mang về nhà làm, và được tham khảo tài liệu thoải mái, miễn sao thuyết phục được thầy.
Tôi viết bài thi có tên “Thờ cúng thành hoàng làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ: Nhận thứ nguồn gốc”.
Bài thi dài dằng dặc, có dẫn tài liệu từ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Kiến Văn Tiểu Lục, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, Lĩnh Nam Chích Quái, Việt Điện U Linh, Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính, các cuốn về nếp sống của Toan Ánh, bài của một số học giả Pháp… Thế rồi đem đến nộp.
Tôi đồ GS Trần Quốc Vượng nghĩ “bọn” này chắc là “chép lại” lời thầy, có tí thêm thắt gì đó (?), vì đề thi môn học rất mở.
Đọc bài thi của tôi xong, mấy hôm sau GS Trần Quốc Vượng đến cơ quan tôi lúc đó là Viện Văn hóa, hỏi lấy các chi tiết này ở đâu ra. Tôi trả lời ở sách ấy, sách ấy. Ông gật gật không nói gì. Nhưng ngạc nhiên hơn là ngay sau đó ông mang bài thi đưa ngay cho GS Từ Chi và ông Trần Lâm Biền, lúc đó là biên tập viên ở Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật và nói là nên đăng ngay trên tạp chí.
Rốt cuộc, năm 1992, bài thi của tôi được đăng trên tạp chí này, chia thành hai số, mang tên đúng như bài thi, trong số 1, số 2 năm 1992.
Cũng từ đó về sau, tôi được vinh hạnh được hầu chuyện ông, được đi điền dã cùng GS trên nhiều tuyến khác nhau. Tình cảm của ông dành cho tôi là vô lượng”.
Một học trò khác của GS Trần Quốc Vượng là chị Đỗ Thị Hương Thảo lại nhớ đến thầy với hình ảnh một vị giáo sư đáng kính, thông minh, sắc sảo với phong cách giảng dạy đại học “không theo thói thường”.
“Những ai đã may mắn được nghe GS. Trần Quốc Vượng giảng có lẽ không quên những buổi giảng bài mà có khi cả buổi sinh viên ngơ ngác không hiểu Thầy dạy nội dung cụ thể gì trong giáo trình mà toàn thấy Thầy dạy về các địa phương trong nước.
Không cần nghỉ giải lao, GS. Trần Quốc Vượng có thể nói say sưa hàng giờ trong mỗi buổi học về lịch sử, con người, văn hóa, chính trị, xã hội… của các vùng đất từ ải Nam Quan đến Cà Mau.
Nếu tinh ý, người học sẽ nhận ra những kiến thức, những thông điệp, những phương pháp nghiên cứu mà Ông tích lũy được suốt một đời làm nghiên cứu khoa học được chuyển tải thông qua những câu chuyện tưởng chừng không có liên quan mấy đến môn học” – chị Thảo nhớ lại.
“Những sinh viên năm thứ nhất khi học với Ông, luôn ấn tượng với công thức, dòng chữ ông viết hoa trên bảng ĐẠI HỌC = TỰ HỌC.
|
Ông là người được trời phú cho khả năng diễn thuyết, diễn trình rất có duyên. Khi Ông cất tiếng, cả hội trường hàng trăm người bị sức cuốn hút kỳ lạ đến không ngờ của một vị giáo sư thông minh, uyên bác.
Ông có thể dạy hàng giờ, rất lôi cuốn, truyền đạt cho sinh viên rất nhiều kiến thức nhưng để hiểu sâu sắc những điều ông dạy, buộc sinh viên phải động não trong quá trình học. Ông luôn có những câu hỏi bất ngờ trong giờ dạy, buộc sinh viên phải tư duy về những điều đang học. Ông khuyến khích sinh viên phải “biết cãi” – điều đó có nghĩa là ông khuyến khích tư duy phản biện trong khoa học xã hội. Không dễ để phản biện, muốn phản biện cần phải có hiểu biết rộng và sâu sắc”.
Một điều mà chị Thảo đặc biệt ghi nhớ là cách GS. Trần Quốc Vượng gọi sinh viên là “các ông, các bà” - rất lạ tai với nhiều sinh viên lần đầu mới học ông. Chị Thảo cho biết đây “cũng là cách Giáo sư nhắc nhở với người học rằng họ là những người đã trưởng thành, cần có tư duy độc lập, chứ không thuần túy là “học sinh cấp III lên cấp IV””.
Ông đã từng nói trong một bài phỏng vấn: “Nhiều học trò [của] tôi đã vượt Thầy”. Ông mừng với điều này và đây chính là điều Ông tâm nguyện và đi theo:
“Con hơn cha là nhà có phúc”
“Trò hơn Thầy đức nước càng dầy”
GS Trần Quốc Vượng (12/12/1934 – 8/8/2005) là một giáo sư, nhà sử học, nhà khảo cổ học Việt Nam. Sau khi tốt nghiệp thủ khoa cùng với Phan Huy Lê, Đinh Xuân Lâm năm 1956 ông được giữ lại làm cán bộ giảng dạy tại Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội). Ông được xem là một trong "tứ trụ" "Lâm, Lê, Tấn, Vượng" (gồm các Giáo sư Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn và Trần Quốc Vượng) của sử học Việt Nam đương đại. |
Ngân Anh tổng hợp
(từ những phát biểu và bài viết gửi về Tọa đàm “Còn là tinh anh” – kỉ niệm 10 năm ngày mất GS Trần Quốc Vượng, diễn ra cuối tháng 8/2015)