BÁO CÁO TÓM TẮT

CỦA CHÁNH ÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

VỀ CÔNG TÁC CỦA CÁC TOÀ ÁN TRONG NHIỆM KỲ QUỐC HỘI KHÓA XIV

 

Thực hiện kế hoạch của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tổng kết công tác nhiệm kỳ 2016-2021, Tòa án nhân dân tối cao đã có Báo cáo số 47/BC-TA ngày 20/10/2020 gửi Quốc hội. Tại phiên họp hôm nay, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xin trình bày tóm tắt báo cáo công tác của các Tòa án trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV, cụ thể như sau:

I. NHỮNG THÀNH TỰU, KẾT QUẢ NỔI BẬT

Trong nhiệm kỳ qua, mặc dù số lượng công việc tăng (bình quân mỗi năm tăng khoảng 8%) với tính chất phức tạp, quy mô lớn và phải thực hiện nghiêm việc tinh giản biên chế nhưng các Tòa án đã không ngừng đổi mới, triển khai nhiều biện pháp đột phá, sáng tạo nên đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Quốc hội giao và đạt được nhiều kết quả nổi bật, đặc biệt là những thành tựu sau:

1. Hệ thống Tòa án nhân dân đã hoàn thành nhiệm vụ, xét xử đạt và vượt các chỉ tiêu, yêu cầu quan trọng Quốc hội giao với chất lượng cao

Các Tòa án đã thụ lý 2.433.631 vụ việc, đã giải quyết được 2.375.983 vụ việc, đạt tỷ lệ 97,6% (so với nhiệm kỳ trước, thụ lý tăng 624.551 vụ việc, đã giải quyết tăng 594.573 vụ việc). Chất lượng xét xử tiếp tục được bảo đảm và có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan hàng năm đều dưới 1,5%, đạt chỉ tiêu Nghị quyết của Quốc hội.

Đặc biệt đã xét xử các vụ án hình sự đạt tỷ lệ 99,5%; đã giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động đạt tỷ lệ 97,3%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết của Quốc hội. Việc xét xử các vụ án hình sự bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, trong nhiệm kỳ không để xảy ra trường hợp nào kết án oan người không có tội. Việc giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự, vụ án hành chính đúng pháp luật.

2. Tổ chức xét xử các vụ án tham nhũng, chức vụ, kinh tế được Đảng, Nhà nước và nhân dân đánh giá cao, dư luận đồng tình, ủng hộ

Thực hiện chỉ đạo của Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng trung ương, các Tòa án đã đưa ra xét xử nghiêm 7.463 vụ án tham nhũng, chức vụ, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp với 14.540 bị cáo và áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nghiêm khắc đối với người chủ mưu, cầm đầu, lợi dụng chức vụ chiếm đoạt tài sản của Nhà nước. Đã áp dụng các biện pháp thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản để thu hồi hàng chục nghìn tỷ đồng theo đúng quy định của pháp luật.

3. Tập trung nguồn lực, nâng cao chất lượng giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, đơn thư khiếu nại, tố cáo

Tòa án nhân dân đã giải quyết 36.042 đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm (so với nhiệm kỳ trước, thụ lý tăng 7.503 đơn; đã giải quyết tăng 5.268 đơn). Đã đề ra nhiều giải pháp để đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng giải quyết, do đó, tỷ lệ giải quyết đơn trong những năm gần đây có nhiều tiến bộ, năm sau luôn đạt cao hơn năm trước. Các Tòa án đã giải quyết 26.770 đơn khiếu nại quyết định tố tụng và hành vi tố tụng, đạt tỷ lệ 98,8%. Việc giải quyết tuân thủ đúng thủ tục, thời hạn, có căn cứ và đúng pháp luật.

4. Tích cực tham gia xây dựng thể chế; tăng cường công tác xây dựng và đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật

Tòa án nhân dân tối cao đã nỗ lực không ngừng trong công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế. Đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng hơn 60 dự án luật, pháp lệnh. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành 24 Nghị quyết hướng dẫn áp dụng các đạo luật quan trọng; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành 05 Thông tư. Ngoài ra, đã phối hợp xây dựng, ban hành 19 Thông tư liên tịch. Ban hành 05 tập Giải đáp và nhiều văn bản thông báo kết quả giải đáp trực tuyến về nghiệp vụ. Số lượng lớn văn bản ban hành được trong nhiệm kỳ đã khẳng định công tác xây dựng thể chế là điểm sáng, thành tựu nổi bật của nhiệm kỳ này.

Đã công bố được 39 án lệ; nghiên cứu xây dựng 03 cuốn “Án lệ và Bình luận” và Giáo trình “Án lệ và thực tiễn xét xử”; vận hành có hiệu quả Trang tin điện tử về án lệ với nhiều nội dung phong phú. Mặc dù việc phát triển án lệ mới đang ở giai đoạn đầu nhưng đã có những án lệ được Chánh án Tòa án tối cao nhiều nước đánh giá đạt trình độ quốc tế, mở ra thời kỳ mới về phát triển án lệ. Tăng cường áp dụng án lệ trong xét xử. Nhiệm kỳ qua đã có hơn 1000 vụ án viện dẫn án lệ trong xét xử. Bước đầu đã hình thành kỹ năng và tập quán áp dụng án lệ trong xét xử như xu thế chung của thế giới.

5. Triển khai mô hình tổ chức Tòa án 4 cấp theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân

Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao đã triển khai thành lập hệ thống Tòa án 04 cấp. Hoạt động của 04 cấp Tòa án dần dần đi vào ổn định, nề nếp và phát huy tác dụng của mô hình tổ chức Tòa án mới.

6. Tổ chức phiên tòa xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp

Phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp được chỉ đạo đổi mới theo hướng công tác xét xử phải tuân thủ pháp luật, đảm bảo nguyên tắc tranh tụng. Hội đồng xét xử thực hiện đầy đủ các quyền năng pháp lý. Các Thẩm phán đã nhận thức sâu sắc hơn tranh tụng là con đường đi đến công lý nên đã thực hiện nghiêm Chỉ thị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về việc không hạn chế thời gian tranh tụng, ghi nhận tất cả các vấn đề tranh tụng và căn cứ vào kết quả tranh tụng để đưa ra phán quyết. Những kiến nghị của Tòa án không chỉ khắc phục sai sót của các cơ quan tiến hành tố tụng mà còn khắc phục sơ hở trong cơ chế, chính sách quản lý vĩ mô và thực thi pháp luật của các cơ quan nhà nước, chính vì vậy chất lượng xét xử không ngừng được nâng lên. Qua hoạt động xét xử, đóng góp của Tòa án trong quản lý điều hành Đất nước ngày càng thiết thực, rõ ràng.

7. Đổi mới mô hình phòng xét xử theo hướng tiến bộ, phù hợp với xu thế chung của thế giới

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành các Thông tư quy định về phòng xử án và quy chế tổ chức phiên tòa để bố trí lại vị trí ngồi của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng; xây dựng tiêu chí, yêu cầu cụ thể của phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp; quy định về việc tổ chức phòng xét xử thân thiện khi xét xử các vụ việc gia đình và người chưa thành niên. Đến nay, mô hình phòng xét xử mới đã được triển khai sâu rộng, phù hợp với xu thế chung của quốc tế. Qua đó bảo đảm cho các chủ thể tham gia tố tụng bình đẳng và thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ theo đúng yêu cầu tranh trụng; bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên.

8. Trang bị trang phục xét xử của Thẩm phán theo thông lệ quốc tế

Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao đã tiến hành thí điểm và sau đó triển khai trên toàn quốc trang phục xét xử thống nhất của Thẩm phán, tạo nên diện mạo mới cho Thẩm phán, đề cao tính uy nghiêm của nền tư pháp nước nhà.

9. Đề xuất Quốc hội thông qua Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án và khẩn trương triển khai thực hiện

Tổ chức thành công thí điểm đổi mới, hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính tại 16 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trên cơ sở đó, đã đề xuất và được Quốc hội chấp thuận xây dựng và ban hành Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Triển khai, tổ chức tập huấn, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện Luật, đưa Luật vào cuộc sống từ ngày 01/01/2021. Đến nay, Tòa án đã bổ nhiệm được hơn 2000 Hòa giải viên tại 49 tỉnh, thành. Luật này có hiệu lực sẽ hình thành nên cơ chế mới để giải quyết hòa thuận, hiệu quả những mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội mà không phải xét xử, tiết kiệm nguồn lực xã hội, đem lại lợi ích thực chất cho người dân.

10. Nâng cao chất lượng bản án, quyết định của Tòa án

Tổ chức các Hội nghị trực tuyến tập huấn về kỹ năng viết bản án, quyết định cho Thẩm phán và các chức danh tư pháp của Tòa án nhân dân các cấp; rút kinh nghiệm đối với những sai sót trong việc viết bản án, quyết định của Thẩm phán; xây dựng các giáo trình đào tạo chuyên sâu về kỹ năng viết từng loại bản án. Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành các Nghị quyết; về thể thức và kỹ thuật trình bày các văn bản tố tụng; ban hành các bản án mẫu để các Thẩm phán tham khảo trong quá trình xét xử. Chất lượng bản án, quyết định không ngừng được nâng cao, từ đó, kết quả giải quyết, xét xử các vụ việc đã có nhiều tiến bộ rõ nét.

11. Công khai bản án trên Cổng thông tin điện tử

Việc công khai bản án, quyết định của Tòa án trên Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân được các Tòa án trong toàn quốc thực hiện nghiêm túc, thực chất, có hiệu quả và đến nay đã dần đi vào nề nếp với chất lượng các bản án ngày càng tốt hơn. Đã công bố được hơn 600.000 bản án, quyết định trên Internet. Thu hút sự quan tâm của Nhân dân với tổng lượng truy cập để tìm hiểu về các bản án là hơn 22 triệu lượt người và hàng chục triệu ý kiến bình luận, góp ý đối với các bản án, quyết định. Qua đó đề cao trách nhiệm của Thẩm phán, nâng cao chất lượng xét xử, tạo cơ chế để nhân dân giám sát hoạt động tư pháp.

12. Đổi mới thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án

Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn thành lập bộ phận hành chính tư pháp tại các Tòa án; đổi mới quy trình, thủ tục xử lý công việc của bộ phận hành chính tư pháp, đảm bảo đơn giản hóa các bước, thủ tục; triển khai “mô hình hành chính tư pháp một cửa” tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi tiếp cận tư pháp; xây dựng các phần mềm ứng dụng trong phân công giải quyết án; phần mềm theo dõi quản lý án,...

13. Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ

Thường xuyên đổi mới, đa dạng phương thức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, pháp luật, kinh nghiệm xét xử trong toàn hệ thống, nhất là cho các chức danh tư pháp. Theo đó, đã đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho trên 15.000 Thẩm phán và các chức danh tư pháp; đã tổ chức tập huấn trực tuyến hàng tháng cho đội ngũ Thẩm phán và công chức có chức danh tư pháp trong toàn hệ thống; đã tổ chức hơn 30 buổi đối thoại trực tuyến định kỳ giữa Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao với Thẩm phán toàn quốc để trao đổi, giải đáp những vướng mắc trong thực tiễn xét xử. Các hình thức đào tạo đổi mới và bổ ích này đã thu hút các Thẩm phán, Điều tra viên, Kiểm sát viên tại các địa phương tham gia đông đảo.

Các Tòa án thường xuyên tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm theo yêu cầu cải cách tư pháp để các Thẩm phán nâng cao tinh thần trách nhiệm, tích lũy kiến thức, kinh nghiệm xét xử. Đã phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tổ chức 25.697 “Phiên tòa rút kinh nghiệm”. Thông qua việc rút kinh nghiệm từ chính thực tiễn xét xử, giải quyết các loại vụ việc mà các thẩm phán tự đào tạo, tự học tập. Mỗi phiên tòa này đều là bài học bổ ích, thiết thực cho Thẩm phán, Kiểm sát viên.

14. Tăng cường và gắn kết công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng với xây dựng ngành

Chăm lo công tác xây dựng Đảng, kết hợp chặt chẽ với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhất là các chức danh tư pháp liêm chính, chuyên nghiệp; xây dựng Tòa án trong sạch, vững mạnh. Thực hiện nghiêm các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, về công tác tư pháp và cải cách tư pháp. Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức, lối sống. Đã ban hành và tổ chức thực hiện “Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán”, “Quy định về xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong Tòa án nhân dân” và “Chỉ thị về tăng cường kỷ cương, kỷ luật công vụ trong các Tòa án nhân dân”. Đưa Giáo trình về đạo đức thẩm phán vào giảng dạy tại Học viện Tòa án.

15. Sắp xếp, tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tăng cường thanh tra, kiểm tra đề cao kỷ cương, kỷ luật công vụ

Đội ngũ cán bộ Tòa án các cấp tiếp tục được sắp xếp tinh gọn. Tòa án các cấp đã tinh giản đủ 10% biên chế theo Nghị quyết số 39-NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương. Hoàn thành Đề án vị trí việc làm và Đề án tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân. Đã thành lập 38 Tòa gia đình và người chưa thành niên tại các Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

Tổ chức thành công các kỳ thi tuyển chọn, nâng ngạch Thẩm phán, chuyên viên, chuyên viên chính. Công tác quy hoạch, tuyển dụng, điều động, luân chuyển, biệt phái, bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ được thực hiện có hiệu quả. Hoạt động giám sát đối với Thẩm phán được tăng cường. Công tác thanh tra, kiểm tra luôn được tiến hành thường xuyên để kịp thời khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Trong nhiệm kỳ đã thành lập 68 đoàn kiểm tra tiến hành công tác kiểm tra xét xử tại các Tòa án nhân dân cấp cao, 95 lượt Tòa án nhân dân cấp tỉnh và 220 lượt Tòa án nhân dân cấp huyện để phát hiện, xử lý nghiêm, rút kinh nghiệm, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của các Tòa án.

16. Chủ động giới thiệu nhân sự cấp ủy có chất lượng cho Đại hội Đảng các cấp

Chủ động bố trí, kiện toàn lãnh đạo Tòa án các cấp trước, trong và sau Đại hội Đảng các cấp theo đúng Chỉ thị 35 CT/TW của Bộ Chính trị. Giới thiệu nhiều Thẩm phán ưu tú tham gia cấp ủy. Kết quả tại Đại hội đảng các cấp đã giới thiệu và được Đại hội Đảng các cấp tín nhiệm bầu gần 700 Thẩm phán tham gia cấp ủy, đạt tỷ lệ trên 97%. Đây là tỷ lệ tham gia cấp ủy cao nhất trong nhiều nhiệm kỳ. Qua đó khẳng định vị thế và tín nhiệm của Tòa án với Đảng và Nhân dân.

17. Chăm lo xây dựng Hội thẩm nhân dân

Chăm lo xây dựng đội ngũ Hội thẩm nhân dân đủ số lượng, chất lượng đáp ứng yêu cầu công tác xét xử. Tòa án nhân dân hiện đã thành lập đủ các Đoàn hội thẩm và hiện đang có 16.913 Hội thẩm nhân dân phục vụ công tác xét xử. Đội ngũ Hội thẩm nhân dân thường xuyên được bồi dưỡng nghiệp vụ, về cơ bản đã đảm bảo cơ chế Nhân dân tham gia hoạt động xét xử, hỗ trợ Tòa án hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao, hoạt động ngày càng nề nếp, hiệu quả.

18. Tích cực tham gia phòng chống Covid-19

Trong thời kỳ dịch Covid-19 bùng phát, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Chỉ thị về việc tăng cường xét xử các vụ án liên quan đến dịch Covid-19; Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã kịp thời ban hành nhiều văn bản hướng dẫn việc xét xử tội phạm liên quan đến phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Các Tòa án đã hoãn, giãn xét xử để thực hiện giãn cách xã hội. Trong thời gian dịch bệnh đã xét xử 57 vụ án, 119 bị cáo liên quan đến hành vi lan truyền bệnh dịch, tung tin sai sự thật, đầu cơ, làm hàng giả, tham ô... theo thủ tục rút gọn và tuyên án nghiêm khắc, góp phần tích cực vào công tác phòng chống dịch bệnh cùng cả nước.

19. Làm tốt công tác phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan có liên quan

Tăng cường phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả với các cấp, các ngành, đặc biệt là giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với nhau, giữa Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án với các địa phương, các cơ quan trong khối nội chính trong quá trình giải quyết các loại vụ việc.

20. Từng bước củng cố, hiện đại hóa cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho Tòa án nhân dân theo Nghị quyết của Quốc hội

Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về đầu tư xây dựng trụ sở, nhiệm kỳ qua, Tòa án đã hoàn thành đầu tư, xây dựng trụ sở mới trụ sở Tòa án nhân dân tối cao, trụ sở 03 Tòa án nhân dân cấp cao, 21 trụ sở Tòa án nhân dân cấp tỉnh, 49 trụ sở Tòa án nhân dân cấp huyện. Các công trình của Tòa án uy nghiêm, tạo ra diện mạo mới, chấm dứt thời kỳ các Tòa án cấp huyện đi thuê trụ sở, cải thiện đáng kể điều kiện làm việc của toàn hệ thống. Hoàn thiện đề án “Trang bị phương tiện làm việc của hệ thống Tòa án giai đoạn III” và đã được Chính phủ phê duyệt Đề án trang bị, phương tiện làm việc cho các Tòa án giai đoạn IV (2019-2023).

21. Tăng cường đầu tư, ứng dụng công nghệ thông tin

Hoàn thành việc đầu tư, ứng dụng công nghệ thông tin, trong các hoạt động của Tòa án. Đã xây dựng đưa vào sử dụng hệ thống truyền hình trực tuyến tới gần 800 điểm cầu đến Tòa án cấp huyện và Tòa án Quân sự cấp quân khu. Nhiều phần mềm được đưa vào sử dụng, đặc biệt là hệ thống gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp tống đạt, thông báo văn bản tố tụng của Toà án qua mạng Internet; hệ thống cho phép thí điểm xét xử các vụ án hành chính qua mạng Internet. Góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác chỉ đạo, điều hành, tạo môi trường làm việc hiện đại, thuận tiện, mỗi năm đã tiết kiệm hàng chục tỷ đồng cho ngân sách do không phải hội họp và đào tạo, bồi dưỡng theo hình thức tập trung, đặt cơ sở bước đầu để xây dựng tòa án điện tử như cam kết của Hội đồng Chánh án Asean.

22. Chủ động và trách nhiệm trong hoạt động hợp tác quốc tế

Hoạt động hợp tác quốc tế được mở rộng và tăng cường. Tòa án nhân dân tối cao đã nỗ lực, chủ động tham gia có trách nhiệm và có nhiều sáng kiến trong các thiết chế tư pháp đa phương, song phương như: Hội đồng Chánh án Châu Á Thái Bình Dương, Hội đồng Chánh án Asean, Hội đồng Chánh án ba nước Đông dương, Hội đồng Chánh án tiểu vùng sông Mê Kông. Đăng cai và tổ chức thành công nhiều Hội nghị quốc tế quan trọng, nhất là các kỳ họp của Hội đồng Chánh án các nước Asean nhiệm kỳ 2016-2020. Đảm nhận tốt vai trò Chủ tịch Hội đồng Chánh án Asean; phân công Thẩm phán Việt Nam là Trọng tài viên quốc tế tham gia Tòa trọng tài thường trực quốc tế PCA (tại Hà Lan), tạo nên uy tín, vị thế của Tòa án Việt Nam trong các thiết chế tư pháp quốc tế.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động của các Tòa án cũng còn một số hạn chế, thiếu sót đã được nêu cụ thể trong Báo cáo chính gửi Quốc hội. Nguyên nhân là do: số lượng các loại vụ việc mà Tòa án phải thụ lý, giải quyết tiếp tục gia tăng với tính chất ngày càng phức tạp (tăng 624.551 vụ việc so với nhiệm kỳ trước). Số lượng đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm rất lớn, trong khi số lượng cán bộ, Thẩm phán chưa đủ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Chế độ chính sách đối với cán bộ, Thẩm phán còn chưa thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao vào công tác tại Tòa án…

II. NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM THỜI GIAN TỚI

Báo cáo số 47/BC-TA ngày 20/10/2020 đã đề ra các nhiệm vụ trọng tâm công tác Tòa án, trong đó các nhiệm vụ lớn được xác định là:

1. Quán triệt và thực hiện nghiêm Nghị quyết Đại hội XIII và các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội về công tác tư pháp và cải cách tư pháp.

2. Đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ việc.

3. Tăng cường xây dựng thể chế và bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật.

4. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ Tòa án tinh gọn, liêm chính; đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng. Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng; kết hợp chặt chẽ công tác xây dựng Đảng với xây dựng Tòa án trong sạch, vững mạnh; thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ.

5. Tiếp tục ứng dụng công nghệ thông tin; cải cách thủ tục hành chính-tư pháp; xây dựng Tòa án điện tử.

6. Tăng cường, chủ động mở rộng các hoạt động hợp tác quốc tế. Làm tốt công tác tương trợ tư pháp. Nghiên cứu, đề xuất phương án đào tạo cán bộ phục vụ hội nhập quốc tế.