_nh-thay.jpg
VNPT Hà Tĩnh chú trọng công tác bán lẻ các dịch vụ viễn thông.

Cú huých của “Cơ chế 46”

Trao đổi với Báo Bưu điện Việt Nam, ông Nguyễn Đình Danh, Giám đốc VNPT Hà Tĩnh cho biết, với quyết tâm đổi mới, VNPT Hà Tĩnh đã có hợp đồng nội bộ triển khai giữa VNPT Hà Tĩnh với các Công ty chủ dịch vụ VNP, VDC, VTN, VTI, VASC. Trong hợp đồng quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của các công ty dọc và VNPT Hà Tĩnh. Sau khi ký kết hợp đồng, các bên đã triển khai thực hiện nghiêm túc với tính trách nhiệm cao giữa các Công ty dọc và VNPT Hà Tĩnh. Ông Danh nhìn nhận: Nội dung “cơ chế 46” đã đi vào SXKD một cách hiệu quả. Để kích thích phát triển dịch vụ, các đơn vị chủ dịch vụ đã thực hiện các chính sách kinh doanh riêng phối hợp chặt chẽ với VNPT tỉnh, thành triển khai đồng bộ các dịch vụ. Đồng thời, các đơn vị dọc đã phối hợp và hỗ trợ VNPT Hà Tĩnh mạnh mẽ hơn trong việc triển khai cung cấp dịch vụ cũng như CSKH, phân chia nguồn chi phí và doanh thu khi triển khai các gói cước.

Với chiến lược giữ vững thị phần, phát triển nhanh và bền vững trong sự phát triển toàn diện của xã hội và địa phương, VNPT Hà Tĩnh xác định phải đảm bảo nâng cao chất lượng dịch vụ. Các chính sách khuyến mại được nghiên cứu điều tiết cho phù hợp với từng đối tượng khách hàng cũng như từng thời điểm thích hợp, tránh tình trạng khách hàng chạy theo các đợt khuyến mại làm tăng chi phí, nhưng không phát sinh doanh thu, làm giảm hiệu quả của các chính sách khuyến mại. Với phương châm đó, VNPT Hà Tĩnh đã đưa ra các chương trình khuyến mại như: dịch vụ MyTV, MegaVNN, dịch vụ FTTX/Fiber VNN; dịch vụ cố định Gphone kèm bộ hòa mạng Goldtel, dịch vụ di động Vinaphone trả sau... đem lại kết quả cao. Trong 6 tháng đầu năm 2011, VNPT Hà Tĩnh phát triển được 142.590 thuê bao các loại.

Bên cạnh đó, lãnh đạo VNPT Hà Tĩnh còn thường xuyên quán triệt tư duy kinh doanh đến từng CBCNV, yêu cầu mỗi CBCNV phải xác định rõ đối tượng khách hàng, thị trường tiềm năng để có những chính sách đầu tư bán hàng, CSKH phù hợp. Nhằm tăng cường lực lượng kinh doanh bán hàng, CSKH, VNPT Hà Tĩnh đã chuyển 30% lực lượng lao động hiện có sang làm công tác kinh doanh, phát triển thị trường, thành lập tổ kinh doanh phát triển thị trường và quản lý nợ tại các đơn vị cơ sở, thành lập đội ngũ cán bộ chuyên trách Vinaphone (mỗi huyện từ 1 đến 2 người) thực hiện kênh phân phối bán lẻ gần 1600 điểm bán lẻ sản phẩm VNP tại các đơn vị cơ sở.

Ngoài ra, để khuyến khích tăng NSLĐ, nâng cao hiệu quả kinh doanh, VNPT Hà Tĩnh đã thực hiện cơ chế lương khoán 100% (không có lương chính sách) từ ngày 1/1/2011 để phù hợp với cơ chế mới của Tập đoàn; đồng thời giao khoán kế hoạch doanh thu, chi phí, phát triển các dịch vụ cho từng đơn vị trực thuộc và cá nhân; phát động các phong trào thi đua để động viên, khuyến khích CBCNV nỗ lực hoàn thành kế hoạch…

Đơn vị đã tập trung nguồn lực triển khai thực hiện quản lý, thu hồi công nợ, thực hiện quản lý dòng tiền, hạch toán theo từng dịch vụ; thành lập Trung tâm Thanh khoản và Quản lý cước với nhiệm vụ kiểm tra, giám sát công tác thu nợ tại Bưu điện tỉnh; Ban hành các cơ chế, chính sách xử lý dứt điểm các khoản công nợ và nợ khó đòi nhằm giảm tỷ lệ nợ đọng. Công tác quản lý thu hồi công nợ nhanh đã góp phần đẩy mạnh hiệu quả hoạt động của VNPT Hà Tĩnh, 6 tháng đầu năm kết quả thu nợ đạt 97%.

Những con số đầy ấn tượng

Với việc triển khai quyết liệt và đồng bộ các giải pháp trên, kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm 2011 của VNPT Hà Tĩnh đã đạt được những con số ấn tượng: đạt 40% KH, tăng trưởng 37% so với cùng kỳ năm 2010. Trong đó: doanh thu Vinaphone đạt 45% KH; tăng trưởng 36% so với cùng kỳ năm 2010; doanh thu bán thẻ trả trước đạt 35,4 tỷ đồng bằng 30% KH, tăng trưởng 244% so với cùng kỳ năm 2010; doanh thu dịch vụ Internet đạt 49% KH; tăng trưởng 30% so với cùng kỳ năm 2010; phát triển 142.590 thuê bao viễn thông các loại trong 6 tháng đầu năm bằng 158% KH. Với đà tăng trưởng này, Giám đốc VNPT Hà Tĩnh Nguyễn Đình Danh cho biết, 6 tháng cuối năm 2011, VNPT Hà Tĩnh sẽ tiếp tục tăng cường công tác rà soát các chi phí, hạng mục đầu tư để có mức tiết giảm phù hợp, bảo đảm tăng trưởng của doanh thu phải cao hơn mức tăng chi phí; phát động thi đua thực hiện các chương trình sáng kiến, cải tiến kỹ thuật... Phấn đấu đến cuối năm 2011 tỷ lệ thu nợ của đơn vị đạt trên 98%; Đồng thời tiếp tục, rà soát, kiểm tra, sắp xếp lao động hợp lý, chuẩn hóa về trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức để bố trí đúng người, đúng việc nhằm phát huy hiệu quả trong SXKD…

Nội dung được đăng trên báo Bưu điện Việt Nam số 96 ra ngày 12/8/11