1.jpg

Đặc biệt, trong giai đoạn 1999-2008, VNPT đã đạt được nhiều thành tích xuất sắc trong lao động sáng tạo, xứng đáng với danh hiệu Anh hùng Lao động do Chủ tịch nước vừa phong tặng.

Ngày 22/12/2009, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký Quyết định phong tặng Danh hiệu Anh hùng Lao động cho VNPT vì đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động sáng tạo từ năm 1999 đến năm 2008, góp phần vào sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đây là niềm vinh dự, tự hào của toàn thể 9 vạn CBCNV VNPT, thể hiện sự tiếp nối xứng đáng truyền thống 65 năm xây dựng và phát triển đi đầu trong sự nghiệp đổi mới, CNH-HĐH đất nước của ngành Bưu điện. Không chỉ thực hiện tốt nhiệm vụ phục vụ SXKD, VNPT còn nỗ lực trong các hoạt động đóng góp vì cộng đồng. Là một trong những doanh nghiệp luôn đi đầu trong đóng góp vào lĩnh vực an sinh xã hội, trong 10 năm qua, VNPT đã đóng góp tổng số 435,559 tỷ đồng, riêng năm 2009 VNPT đã đóng góp 122 tỷ đồng cho các hoạt động an sinh xã hội, đền ơn đáp nghĩa, từ thiện, nhân đạo, khuyến học...

Đổi mới để phát triển bền vững

Ngày 19/04/1995, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định thành lập Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) trên cơ sở sắp xếp lại các đơn vị dịch vụ, sản xuất, lưu thông, sự nghiệp về bưu chính-viễn thông (BCVT) thuộc Tổng cục Bưu điện, nay là Bộ Thông tin và Truyền thông. Theo đó, VNPT là một doanh nghiệp chủ lực của Nhà nước trong lĩnh vực BCVT, được tổ chức hoạt động theo mô hình các Tổng công ty mạnh (Tổng công ty 91) của Nhà nước. Đến ngày 23/3/2005, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định phê duyệt Đề án thí điểm hình thành Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam. “Chiếc áo” tập đoàn càng khẳng định sự biến đổi về chất của VNPT với vai trò là tập đoàn kinh tế chủ lực của quốc gia trong lĩnh vực BCVT – CNTT. Trước đó, từ năm 2000, VNPT đã bắt đầu triển khai thí điểm việc tách Bưu chính - Viễn thông. Bước đi này đã đổi mới hiệu quả quy mô quản lý hoạt động SXKD theo hướng hợp lý hơn, nâng cao năng lực cạnh tranh của khối đơn vị viễn thông; cơ bản thay đổi hình thức tổ chức quản lý phù hợp với công nghệ mới, không phụ thuộc vào địa dư hành chính, tối ưu hoá mạng lưới, thực hiện quản lý tập trung có hiệu quả cho cả mạng dịch vụ Bưu chính và mạng dịch vụ Viễn thông. Năm 2007, Tổng công ty Bưu chính Việt Nam được thành lập và hoạt động từ 1/1/2008, tạo tiền đề cho việc chuyên môn hoá, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của khối các đơn vị bưu chính để các đơn vị bưu chính có thể dần dần đứng trên đôi chân của chính mình.

Tiến thẳng vào công nghệ hiện đại

Bước vào thời kỳ đổi mới, mặc dù khó khăn rất lớn nhưng với vai trò là doanh nghiệp chủ lực trong lĩnh vực BCVT-CNTT và đứng trước nhiệm vụ đổi mới và hiện đại hoá ngành Bưu điện mà Đảng và Nhà nước giao, tập thể lãnh đạo VNPT đã đề ra những định hướng đúng đắn, những quyết sách táo bạo để phát triển.

Có thể nói, trước hết là quyết sách táo bạo đi thẳng vào công nghệ hiện đại, đồng bộ theo hướng số hoá, bỏ qua công nghệ trung gian. Bước đột phá này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc biến đổi sâu sắc, toàn diện Bưu điện Việt Nam từ lạc hậu lên hiện đại trong một thời gian ngắn, phục vụ đắc lực sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương (hiện đại hoá toàn bộ mạng lưới điều hành của Đảng, Chính phủ qua hệ thống cầu truyền hình; xây dựng hệ thống truyền số liệu đặc biệt phục vụ các cơ quan Trung ương...).

Bên cạnh đó, một chiến lược không kém phần quan trọng là mạnh dạn phá thế bao vây, cấm vận kinh tế bằng sự mềm dẻo, linh hoạt trong quan hệ quốc tế, lựa chọn đa dạng hoá các đối tác để tranh thủ vốn, công nghệ. Đồng thời thực hiện cơ chế tự vay, tự trả; đi đầu trong chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, phá bỏ độc quyền, chấp nhận cạnh tranh để phát triển.

Và cuối cùng là định hướng “phát huy truyền thống, giữ gìn đoàn kết để tiếp tục phát triển bền vững...”. Với những định hướng chiến lược đó, VNPT đã hiện đại hoá và phát triển BCVT Việt Nam ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực, xây dựng VNPT thành Tập đoàn kinh tế mạnh, giữ vai trò chủ lực trong lĩnh vực BCVT – CNTT, đóng góp hiệu quả vào công cuộc CNH – HĐH đất nước.

Xây dựng hạ tầng BCVT vững mạnh

Hiện VNPT là doanh nghiệp có cơ sở hạ tầng rộng lớn nhất trong các doanh nghiệp khai thác viễn thông. Cụ thể, VNPT đang sở hữu tới 93% cơ sở hạ tầng của mạng điện thoại cố định; gần 60% hạ tầng mạng điện thoại di động quốc gia, 100% số xã có điện thoại của VNPT. Tổng số thuê bao điện thoại của VNPT hiện có là 62.741.000 (tăng 90 lần so với năm 1995). Cho dù trên thị trường di động Việt Nam có tới 7 mạng di động đang cạnh tranh quyết liệt, nhưng hai mạng di động của VNPT vẫn là những mạng di động có số thuê bao và doanh thu lớn nhất. Trong đó, MobiFone nhiều năm liền được đánh giá là mạng di động có chất lượng dịch vụ và chăm sóc khách hàng tốt nhất. Ở thị trường Internet, VNPT cũng đang chiếm giữ vị trí chủ đạo. Trong năm 2009, VNPT đã phát triển và chiếm tới 75% thị phần Internet. Trên thực tế, với sức mạnh của VNPT hiện nay thì trong vài năm tới dịch vụ này cơ bản vẫn thuộc “sân chơi” của VNPT.

VNPT hiện có 18.800 điểm phục vụ BCVT – CNTT, bán kính phục vụ bình quân đã được rút ngắn xuống còn 2,41km/điểm, đáp ứng tốt nhu cầu sử dụng dịch vụ BCVT của người dân. Hệ thống bưu cục và điểm BĐVHX đã thường xuyên đáp ứng tốt mọi nhu cầu thông tin cho Đảng, chính quyền các cấp và nhân dân vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa trên toàn quốc. Với mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu là phổ cập các dịch vụ BCVT, Internet tới nông thôn, vùng sâu, vùng xa, mô hình điểm BĐVHX đã thực sự là một điểm sáng vùng nông thôn, góp phần nâng cao dân trí và thúc đẩy quá trình CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn. Cũng từ nhiều năm nay, VNPT đã đặt ra chỉ tiêu số xã có báo đọc trong ngày làm thước đo để đánh giá hiệu quả của công tác phát hành báo chí. Đến nay, người dân của 96% số xã trên cả nước đã được đọc báo trong ngày.

Với hạ tầng BCVT hiện đại này (đồng bộ, rộng khắp, dựa trên nền tảng mạng viễn thông thế hệ mới NGN, tích hợp đa dịch vụ), VNPT đã tham gia đóng góp tích cực vào việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội của Đảng và Nhà nước, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội như: Ổn định và liên tục giảm giá các dịch vụ viễn thông; đóng góp lớn cho việc phổ cập thông tin tới người dân, đưa tỷ lệ người dân sử dụng Internet của Việt Nam lên xấp xỉ 25% (trong đó VNPT đóng góp tới 75%); đưa Internet đến phần lớn các điểm BĐVHX, bưu cục, trường học và hộ gia đình. Bên cạnh đó, VNPT là doanh nghiệp chủ chốt tham gia các hoạt động cung ứng dịch vụ bưu chính, viễn thông công ích của Nhà nước, với 100% sản lượng dịch vụ bưu chính công ích, 63% sản lượng dịch vụ viễn thông công ích.

Năm 2015 sẽ vào Top 10 DN BCVT hàng đầu châu Á

Hiện nay, Việt Nam vẫn là nước có thu nhập thấp, bình quân đầu người đạt khoảng gần 1000 USD/năm, tuy nhiên, người dân Việt Nam lại được sử dụng những thiết bị viễn thông, CNTT hiện đại nhất mà những nước tiên tiến trên thế giới cũng đang sử dụng. Mức độ số hoá mạng lưới viễn thông thuộc vào hàng cao nhất trong khu vực. Đây là một nỗ lực to lớn của ngành Bưu điện trong đó có vai trò đặc biệt quan trọng của VNPT trong việc đầu tư hiện đại hoá mạng lưới mang tính chiến lược nhìn xa, góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển… Với nội lực vững mạnh, VNPT tiếp tục ghi dấu bước phát triển của mình bằng việc năm 2009 là năm thứ 3 liên tiếp VNPT được bình chọn vào Top 10 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam.

Đặc biệt, năm 2008, VNPT phóng thành công và đưa vệ tinh viễn thông đầu tiên VINASAT-1 vào hoạt động, góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện, nâng cao năng lực phủ sóng cho toàn bộ hạ tầng thông tin liên lạc và truyền thông của quốc gia, đáp ứng kịp thời các yêu cầu mới. Hiện, VNPT cũng là một trong những doanh nghiệp VT - CNTT đầu tiên trong nước cung cấp các dịch vụ mới như truy cập Internet qua đường truyền cáp quang FTTH, truyền hình qua Internet tốc độ cao MyTV, di động 3G...

Năm 2009, thực hiện yêu cầu của Chính phủ, với quyết tâm và vai trò của một trong những Tập đoàn kinh tế chủ lực, VNPT đã xây dựng kế hoạch SXKD với mức phấn đấu cao nhất, thể hiện sự quyết tâm lớn, với tổng doanh thu phát sinh là 78.450 tỷ đồng, tăng 36,7% so với năm 2008; nộp ngân sách 8.300 tỷ đồng, tăng 15% so với năm 2008. Mục tiêu chiến lược của VNPT là đến năm 2015 trở thành một trong 10 nhà cung cấp dịch vụ, giải pháp VT - CNTT hàng đầu khu vực châu Á.           

GS. TSKH Đỗ Trung Tá

(Phái viên của Thủ tướng Chính phủ về CNTT, Chủ tịch Hội đồng chính sách KHCN quốc gia; nguyên Bộ trưởng Bộ BCVT, nguyên Chủ tịch HĐQT VNPT)

Thành công nổi bật nhất của VNPT là đi thẳng vào hiện đại, nhanh chóng sử dụng kỹ thuật số, thực hiện số hóa mạng lưới đồng thời chú trọng phát triển nguồn nhân lực tương xứng với công nghệ mới và hội nhập quốc tế.

Thứ hai, phải nói là chủ trương “lấy ngoài nuôi trong”, tức lấy hợp tác quốc tế làm khâu đột phá kinh doanh để từ đó có tiền đầu tư trở lại mạng lưới trong nước. Hợp tác nước ngoài đầu tiên của VNPT là Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) với Telstra của Úc năm 1987 thành công đã mở ra nhiều thắng lợi liên tiếp sau này.

Thứ ba là tự chủ kinh doanh. Khởi đầu của những năm Đổi mới 1986, ngành đã quyết định chuyển hẳn sang tự hoạch toán, tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm. VNPT chỉ xin nhà nước cơ chế, không xin tiền.

Thứ tư là đã rất chủ động trong mặt cập nhật với công nghệ mới và xu hướng phát triển của thế giới qua đó chuyển giao được kinh nghiệm quản lý, kinh doanh của họ.

Thứ năm, phải nói VNPT đã giữ vững được vai trò chủ lực, giúp nhà nước điều tiết được thị trường cho nên trong hội nhập và cạnh tranh, ngành Bưu chính, Viễn thông, CNTT vẫn có bước phát triển mạnh.

Và điều cuối cùng có thể nói: VNPT đã nối tiếp sức mạnh truyền thống của ngành, dũng cảm, hy sinh, hết lòng phụng sự cho Tổ quốc. Chính vì thế nên VNPT được sự ủng hộ của nhân dân, của Đảng, của Nhà nước và với sự quan tâm đó, VNPT đã vượt lên khó khăn, khắc phục khuyết điểm để tự hoàn thiện mình và ngày càng đóng góp nhiều hơn cho xã hội.

Đọc toàn bộ bài viết trên báo Bưu điện Việt Nam số 9 ra ngày 20/1/2010