Kính thưa Đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam;

Kính thưa các đồng chí Ủy viên Bộ chính trị, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng;

Thưa các Quý vị đại biểu đại diện Lãnh đạo các Ban, Bộ, ngành trung ương và địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học, các tổ chức quốc tế, các hiệp hội, các doanh nghiệp, nhà đầu tư trong và ngoài nước;

Thưa toàn thể quý vị đại biểu,

Trong bối cảnh cả nước và toàn hệ thống chính trị đang khẩn trương triển khai đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2019, tổ chức quán triệt và thực hiện hiệu quả các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về các giải pháp phấn đấu hoàn thành mục tiêu đã đề ra trong 6 tháng cuối năm, Hội nghị phát triển Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ là điểm nhấn có ý nghĩa rất quan trọng. Qua đó, tiếp tục khẳng định vai trò là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật và là hạt nhân phát triển của Miền Bắc và cả nước, cửa ngõ giao thương, hội nhập quốc tế của quốc gia.

Với ý nghĩa quan trọng đó, Hội nghị của chúng ta đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, cùng với sự hiện diện của các đồng chí Lãnh đạo Ban, Bộ, ngành trung ương, địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học, các tổ chức quốc tế, hiệp hội, các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thay mặt Ban tổ chức, tôi xin gửi tới Thủ tướng Chính phủ, các đồng chí Phó Thủ tướng Chính phủ, các đồng chí lãnh đạo lời cám ơn trân trọng đã dành thời gian, tâm huyết đến tham dự và chủ trì Hội nghị ngày hôm nay.

Thưa quý vị đại biểu,

Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ được hình thành bởi 03 đỉnh của một tam giác phát triển với 03 địa phương hạt nhân gồm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, tạo nên một khu vực năng động, đi đầu và dẫn dắt sự phát triển của cả Miền Bắc, trở thành trung tâm của cả nước về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu khoa học công nghệ, với hệ thống hạ tầng giao thông kết nối khá đồng bộ, bao gồm cả đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không, đóng góp đáng kể vào sự phát triển chung của cả nền kinh tế.

Trong giai đoạn 2016-2018 và 5 tháng đầu năm 2019, Vùng KTTĐ Bắc Bộ tiếp tục đạt được kết quả rất tích cực, đạt và vượt nhiều chỉ tiêu đề ra tại Quyết định số 198/QĐ-TTg ngày 25/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2020, định hướng đến 2030.

Tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân của Vùng trong 03 năm qua đạt 9,08%/năm, cao nhất trong các vùng KTTĐ, trong đó, nổi bật nhất là Hải Phòng đạt 14,57%/năm. Tổng GRDP của vùng năm 2018 chiếm tỉ trọng 31,73% GDP của cả nước, đứng thứ hai, sau vùng KTTĐ phía Nam, trong đó, Hà Nội tiếp tục khẳng định vai trò đầu tàu với tỷ trọng đóng góp đạt gần 17% GDP cả nước. GRDP bình quân đầu người của Vùng năm 2018 đạt 4.813 USD, gấp 1,86 lần mức trung bình cả nước.

Cơ cấu kinh tế dịch chuyển tích cực, tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm từ 3,98% xuống còn 3,71%, vượt mục tiêu đề ra tại Quyết định số 198/QĐ-TTg.

Tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới được đẩy mạnh, chuyển dịch theo hướng nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp. Đến hết năm 2018, toàn vùng có gần 77% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, cao nhất trong 4 Vùng KTTĐ và cao hơn tỷ lệ bình quân của cả nước[1].

Công nghiệp duy trì vai trò trụ cột trong tăng trưởng của vùng, với nhiều dự án FDI quy mô lớn của các tập đoàn nổi tiếng như Samsung, LG, Microsoft, Kyocera, Toyota, Honda, Ford…, trong đó, công nghiệp điện, điện tử, điện thoại di động, lắp ráp ô tô, đóng tàu, dệt may giữ vai trò chủ đạo, công nghiệp phụ trợ đã có bước phát triển khá.

Các ngành dịch vụ tăng trưởng mạnh mẽ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng bình quân 13,2%/năm, kim ngạch xuất khẩu của vùng tăng bình quân 25,6%/năm, chiếm tỷ trọng 32% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, vượt trước 2 năm so với mục tiêu đề ra tại Quyết định 198/QĐ-TTg. Trong đó, Bắc Ninh là địa phương dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu (đạt 90,5 tỷ USD, chiếm hơn 48% toàn vùng, với sự đóng góp chủ yếu của dự án Samsung hoạt động trên địa bàn); dịch vụ Logistics tăng trưởng nhanh, hình thành 27 trung tâm Logistics trong vùng, chiếm 55% tổng số trung tâm Logistics cả nước.

Thu ngân sách nhà nước của các địa phương trong Vùng đều đạt và vượt dự toán, trong giai đoạn 2016-2018 đạt 1.170 nghìn tỷ đồng, tăng bình quân 11,2%/năm, chiếm 31,2% tổng số thu ngân sách cả nước. Từ năm 2017, tất cả 7 địa phương trong Vùng đều có tỷ lệ điều tiết về NSTW, đóng góp lớn vào nguồn thu ngân sách của cả nước, trong đó, Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh luôn nằm trong nhóm 5 tỉnh, thành phố có số thu lớn nhất nước, riêng Hà Nội chiếm hơn 19% tổng thu ngân sách cả nước và chiếm hơn 54% tổng thu ngân sách của Vùng.

Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện, trong đó, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội, Bắc Ninh luôn có chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) nằm trong nhóm cao của cả nước, Quảng Ninh giữ vị trí đứng đầu cả nước trong 2 năm liên tiếp (2017, 2018). Nhờ đó, số lượng doanh nghiệp của Vùng tăng trưởng mạnh, từ 146 nghìn năm 2016 lên 204 nghìn doanh nghiệp năm 2018, chiếm 28,6% số doanh nghiệp đang hoạt động trên cả nước. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) phát triển bứt phá, với khoảng 7.000 dự án cấp mới và tăng thêm vốn, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 32,1 tỷ USD, bằng 33% về số dự án và 27% tổng vốn đầu tư đăng ký so với cả nước. Đặc biệt, trong năm 2018, Hà Nội thu hút được 7,5 tỷ USD vốn FDI, lần đầu tiên dẫn đầu cả nước về thu hút vốn FDI.

Công tác y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường và giải quyết các vấn đề xã hội cũng được các địa phương trong Vùng quan tâm và có bước phát triển tích cực. Các trung tâm y tế, bệnh viện được quan tâm đầu tư, phát triển theo hướng hiện đại, kỹ thuật cao, nhất là một số trung tâm y tế chuyên sâu tại Thành phố Hà Nội. Toàn vùng có 95 trường đại học, chiếm 40% số trường trong cả nước, tập trung chủ yếu ở Thành phố Hà Nội, chiếm gần 80% của Vùng và gần 32% cả nước, đóng một vai trò rất quan trọng trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng và cả nước. Giai đoạn 2016-2018, đã giải quyết việc làm mới cho gần 885.000 lao động, chiếm hơn 17% tổng số lao động được giải quyết việc làm mới của cả nước. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm từ 2,5% xuống 1,52%, thấp nhất so với 4 Vùng KTTĐ, vượt trước 2 năm so với mục tiêu đề ra tại Quyết định số 198/QĐ-TTg.

Hệ thống hạ tầng giao thông, đô thị tiếp tục được đầu tư xây dựng mạnh mẽ theo hướng đồng bộ, hiện đại, tích cực huy động các nguồn vốn từ tư nhân theo hình thức đối tác công tư PPP đầu tư các dự án giao thông trọng điểm có tác động lan tỏa đến sự phát triển của từng địa phương và tăng tính kết nối liên tỉnh, liên vùng. Một số dự án trọng điểm trên địa bàn đã đi vào vận hành như đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, Hải Phòng - Hạ Long, Nội Bài - Hạ Long, Hà Nội - Cầu Giẽ - Ninh Bình, Cầu đường Tân Vũ - Lạch Huyện, Nhà ga T2 Cảng hàng không quốc tế Nội Bài, Cảng Hàng không quốc tế Cát Bi, Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn, Cảng cửa ngõ quốc tế tại Lạch Huyện (Bến Container số 1, 2) đã tăng tính kết nối giữa các địa phương trong vùng với cả nước và quốc tế, góp phần đẩy mạnh giao thương hàng hóa, giảm chi phí, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong Vùng.

Thưa Quý vị đại biểu,

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Vùng KTTĐ Bắc Bộ đang phải đối mặt với một số khó khăn, thách thức chủ yếu là:

Về phát triển kinh tế - xã hội, ngành dịch vụ hiện đang là lợi thế và đóng góp lớn nhất cho vùng nhưng tốc độ tăng trưởng chưa bền vững, năm 2016 tăng trưởng 9,05% nhưng năm 2018 giảm xuống 7,54%, tỷ trọng dịch vụ trong cơ cấu GRDP của vùng giảm từ 50,67% năm 2016 xuống còn 47,03% năm 2018. Tăng trưởng xuất khẩu năm 2018 chỉ tăng 20%, thấp hơn mức 31,2% năm 2017. Tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt thấp hơn bình quân cả nước, phụ thuộc vào một số doanh nghiệp lớn của nước ngoài nên thiếu tính bền vững trước sự biến động của thị trường[2].

Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của một số địa phương trong vùng vẫn chỉ ở mức trung bình thấp của cả nước, còn dư địa để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh như Hải Dương, Hưng Yên. Doanh nghiệp trong nước của Vùng chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ, chỉ đạt khoảng 10,27 tỷ đồng/1 doanh nghiệp, thấp hơn Vùng KTTĐ phía Nam (10,72 tỷ đồng). Quy mô vốn bình quân trên 1 dự án FDI của Vùng là 10,5 triệu USD, thấp hơn quy mô vốn bình quân chung của cả nước (12,2 triệu USD). Bên cạnh đó, liên kết giữa doanh nghiệp FDI và trong nước chưa cao, mức độ nhận chuyển giao công nghệ và tham gia vào chuỗi giá trị của doanh nghiệp trong nước còn thấp.

Phát triển kinh tế - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường, tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nhiều cụm công nghiệp, làng nghề chưa được đầu tư công trình xử lý nước thải tập trung; tình trạng ô nhiễm môi trường vẫn diễn ra, đặc biệt tại các đô thị lớn, các lưu vực sông gần các khu vực sản xuất, các làng nghề, cụm công nghiệp; vấn đề khai thác tài nguyên như cát, đá, sỏi vẫn còn nhiều bất cập trong công tác quản lý.

Tỷ lệ người nhập cư tăng ở một số thành phố, đặc biệt là Hà Nội đã gây ra tình trạng quá tải của hệ thống hạ tầng kỹ thuật và xã hội, nguy cơ ô nhiễm môi trường, tắc nghẽn giao thông, cung cấp nước và tiêu thoát nước cho các địa phương trong Vùng. Trung bình mỗi năm dân số Thủ đô dự kiến tăng thêm khoảng 200.000 người, tương đương một huyện lớn. Mật độ dân số trung bình của Hà Nội khoảng 2.100 người/km2 cao hơn rất nhiều so với Thủ đô của các nước trong khu vực ASEAN (khoảng 100-200 người/km2).

Về công tác điều phối, Vùng KTTĐ Bắc Bộ vẫn còn gặp phải một số khó khăn, vướng mắc. Cụ thể:

Một là, chưa hình thành rõ ràng thể chế liên kết vùng hiệu quả với cơ chế điều phối đủ mạnh để Hội đồng vùng và các địa phương trong vùng hoạt động. Hội đồng Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ không phải là một cơ quan chuyên trách, có chức năng quản lý nhà nước, chưa có địa vị pháp lý đầy đủ, không có nguồn lực để hoạt động và điều phối sự phát triển chung của Vùng, chưa được “trao quyền” trong việc quyết định các nguồn ngân sách cho các dự án mang tính kết nối, liên kết các địa phương. Chính vì lẽ đó, hoạt động của Hội đồng Vùng phụ thuộc hoàn toàn vào bộ máy các cơ quan trung ương và địa phương, mức độ hoạt động mới dừng ở công tác phối hợp chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của các cơ quan liên quan và địa phương trong Vùng

Hai là, Quy hoạch không gian phát triển Vùng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 198/QĐ-TTg nhưng việc triển khai còn thụ động, chưa rõ nét theo định hướng; quy hoạch các khu đô thị, trung tâm thương mại, khu du lịch nghỉ dưỡng thường phải điều chỉnh cục bộ theo xu thế phát triển. Tốc độ xây dựng một số dự án kết cấu hạ tầng quan trọng còn chậm, hệ thống hạ tầng đô thị bị quá tải tại một số đô thị lớn, đặc biệt là Hà Nội. Công tác lập, phê duyệt và quản lý thực hiện quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết, thiết kế đô thị, quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc tại một số đô thị còn thiếu đồng bộ. Chưa xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu về các ngành, lĩnh vực ưu tiên liên kết vùng do đó chưa hỗ trợ được việc chọn lựa các dự án liên kết vùng, từ đó chưa đánh giá được quá trình và hiệu quả của các hoạt động liên kết.

Ba là, kết nối về khoa học, công nghệ, thông tin truyền thông, đào tạo và sử dụng lao động còn nhiều hạn chế. Chưa có những tổ chức nghiên cứu khoa học, công nghệ lớn mang tính dẫn dắt, đầu tàu trong vùng làm động lực huy động các địa phương cùng thực hiện các nhiệm vụ khoa học, công nghệ mang tính phức tạp. Chưa thực sự có những chính sách đủ mạnh để thu hút đội ngũ tri thức trẻ, những nhà khoa học, những nhà quản lý giỏi và nhà đầu tư để phát triển các trung tâm đào tạo nhà quản lý và đào tạo nghề chất lượng cao cung ứng cho cả vùng.

Bốn là, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong xu thế hội nhập và phát triển, đặc biệt là các ngành khoa học công nghệ 4.0. Ngành nghề đào tạo còn chưa gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và thị trường lao động. Một số ngành nghề được tập trung đào tạo nhiều nhưng nội dung, chương trình đào tạo chưa mang tính đột phá và chất lượng đào tạo còn thấp nên dẫn đến tình trạng mất cân đối cung cầu và hiệu quả đào tạo còn thấp.

Năm là, có sự bất bình đẳng về mức sống giữa các địa phương trong Vùng và giữa khu vực thành thị và nông thôn trong vùng. Khoảng cách phát triển giữa các địa phương trong vùng còn lớn, GRDP bình quân đầu người của Hà Nội, Quảng Ninh cao gấp gần 2 lần so với Hải Dương, Hưng Yên.

Sáu là, quản lý tài nguyên, ô nhiễm môi trường và kiểm soát các lưu vực sông trong vùng còn chưa hiệu quả. Việc quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất sau khi được duyệt ở các cấp chưa được quan tâm sát sao; việc giao đất và cho thuê đất theo hình thức đấu giá thực hiện còn hạn chế; việc thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng ở nhiều dự án còn chậm. Ô nhiễm môi trường tại các cụm công nghiệp và các làng nghề vẫn chưa được giải quyết triệt để; ô nhiễm môi trường tại lưu vực hệ thống các sông còn diễn biến phức tạp, tồn tại tình trạng ô nhiễm môi trường cục bộ ở các lưu vực sông Cầu, Sông Nhuệ - Đáy, Sông Hồng - Thái Bình, hệ thống sông Bắc Hưng Hải,..

Thưa quý vị đại biểu,

Việc nghiên cứu, đề xuất các giải pháp hữu hiệu để khắc phục các khó khăn, thách thức, phát huy tối đa lợi thế của Vùng KTTĐ Bắc Bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển thời gian tới là rất cần thiết và đòi hỏi sự đồng thuận, chung tay của tất cả địa phương trong Vùng. Theo đó, cần xem xét, tập trung vào một số giải pháp lớn sau:

Thứ nhất, cần xây dựng quy hoạch tổng thể với tầm nhìn dài hạn, tích hợp đa ngành đối với sự phát triển của Vùng, quy hoạch lại vùng trên một tầm nhìn mới. Trong đó, phát triển từng tỉnh thống nhất với quy hoạch và chiến lược phát triển toàn vùng, gắn với vai trò “đầu tàu”, “hạt nhân” của Hà Nội và tam giác phát triển Hà Nội – Hải phòng – Quảng Ninh.

Trên cơ sở quy hoạch được duyệt, triển khai xác định khung phát triển chiến lược cho toàn vùng, xác định những ưu tiên đầu tư để phát triển đồng bộ và sử dụng hiệu quả hệ thống kết cấu hạ tầng, đặc biệt ưu tiên phát triển hệ thống logistic. Đồng thời, xây dựng các kịch bản phát triển, đề xuất định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực có ưu thế của vùng, phát triển nguồn nhân lực, phối hợp giải quyết vấn đề môi trường, ưu tiên phát triển các ngành có hàm lượng khoa học công nghệ, chất xám cao, công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường.

Để xây dựng được các giải pháp trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư rất mong nhận được sự tham gia tích cực, có trách nhiệm của các Bộ, ngành, các địa phương trong vùng đối với việc xây dựng quy hoạch. Đồng thời cần có sự thống nhất về nhận thức vì sự phát triển chung của vùng có thể hi sinh các lợi ích cục bộ vì sự phát triển bền vững chung của cả vùng.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế hóa cơ chế điều phối liên kết phát triển kinh tế vùng, tập trung kiện toàn, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các thành viên Hội đồng vùng, phân định rõ trách nhiệm và tăng cường phối hợp giữa Ban chỉ đạo, các Hội đồng vùng, các bộ, ngành và địa phương trong vùng. Đồng thời, các địa phương cần có sự cam kết chính trị mạnh mẽ về trong việc thực hiện các hoạt động liên kết.

Thứ ba, nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ trong lĩnh vực điện, điện tử, điện thoại di động, lắp ráp ô tô, đóng tàu, dệt may; ưu tiên phát triển các loại hình dịch vụ cao cấp, dịch vụ công nghệ thông tin, dịch vụ có hàm lượng tri thức, dịch vụ có giá trị gia tăng cao, chuyển giao công nghệ; phát triển thủ đô Hà Nội trở thành đô thị thông minh dẫn dắt đổi mới sáng tạo, trung tâm tài chính - ngân hàng đạt đẳng cấp quốc tế.

Thứ tư, khuyến khích đổi mới sang mô hình doanh nghiệp đổi mới sáng tạo khoa học và công nghệ, kết nối theo chuỗi giá trị với các doanh nghiệp quốc tế. Đón đầu, khai thác sử dụng những tiến bộ, thành tựu công nghệ của cách mạng công nghiệp 4.0; coi khoa học công nghệ là một trong yếu tố hàng đầu dẫn dắt quá trình tái cơ cấu kinh tế; tăng cường ứng dụng công nghệ mới trong đa dạng các loại hình dịch vụ như y tế, thanh toán, giáo dục; cần ban hành cơ chế, chính sách quy định rõ liên kết vùng phải theo hướng ưu tiên phát triển kinh tế tri thức và tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; đẩy mạnh hợp tác giáo dục đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, chuyên sâu.

Thứ năm, nghiên cứu xây dựng cơ chế phối hợp giữa các địa phương để quản lý tài nguyên, giải quyết ô nhiễm môi trường và kiểm soát các lưu vực sông hiệu quả. Trong đó, tập trung chỉ đạo giải quyết các hạn chế trong quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giao đất và cho thuê đất; triển khai công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng đảm bảo tiến độ; giải quyết triệt để ô nhiễm môi trường tại các cụm công nghiệp, làng nghề và tại các lưu vực sông.

Kính thưa Thủ tướng Chính phủ,

Thưa Quý vị đại biểu,

Tại Hội nghị phát triển Vùng KTTĐ Bắc Bộ ngày hôm nay, chúng tôi mong muốn được lắng nghe, tiếp thu các ý kiến đóng góp của các chuyên gia, các nhà khoa học, đại diện lãnh đạo các Bộ, ngành, đại diện lãnh đạo các địa phương, các doanh nghiệp, nhà đầu tư và đặc biệt là ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ. Tôi tin tưởng rằng các ý kiến sẽ giúp giải quyết được những vấn đề khó khăn, thách thức của vùng, đảm bảo sự phát triển bền vững trong hiện tại và xây dựng vùng KTTĐ Bắc Bộ thực sự là địa bàn tiên phong của cả nước thực hiện các “đột phá chiến lược”, đổi mới thành công mô hình tăng trưởng, trở thành đầu tàu của cả nước về phát triển kinh tế, ổn định xã hội, môi trường bền vững.

Thay mặt Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tôi xin cám ơn sự phối hợp chặt chẽ, hợp tác tích cực của tỉnh Hưng Yên và Văn phòng Chính phủ trong việc tổ chức Hội nghị ngày hôm nay.

Xin kính chúc Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, Lãnh đạo các Bộ, ngành trung ương, Lãnh đạo các địa phương và Quý vị đại biểu sức khỏe, chúc Hội nghị thành công tốt đẹp.

Xin trân trọng cảm ơn./.


[1] Tỷ lệ của Vùng KTTĐPN, KTTĐ miền Trung và KTTĐ ĐBSCL lần lượt là: 55,3%; 37,5%; 43,7% . Cả nước là 46,48%.
[2] Ví dụ như phụ thuộc vào một số dự án đầu tư như sản xuất và lắp ráp ô tô của Toyota và Honda tại Vĩnh Phúc (có thời điểm chiếm gần 80% tổng thu nội địa của tỉnh), Ford tại Hải Dương (có thời điểm chiếm 25% tổng thu nội địa của tỉnh) nên khi thị trường ô tô trầm lắng dẫn tới giảm số thu nội địa của các địa phương từ 5-15%.