GS Alexander Vuving cảnh báo, nếu các nước khác không có những bước đi mạnh mẽ ngay từ bây giờ, biển Đông sẽ bị TQ kiểm soát.
Bản báo cáo của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) của Mỹ hồi tháng 1/2016 cảnh báo đến năm 2030 Trung Quốc (TQ) có thể sở hữu nhiều tàu sân bay đến mức sự hiện diện thường xuyên của các hạm đội tàu sân bay đủ biến biển Đông gần như thành một “ao nhà” của TQ. GS. Alexander Vuving, Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương (Mỹ) cũng cho rằng nếu các nước khác không có những bước đi mạnh mẽ ngay từ bây giờ, trong tương lai Biển Đông sẽ bị Trung Quốc kiểm soát.
Giáo sư Alexander Vuving. Ảnh: VOV |
Nếu các nước không có bước đi mạnh mẽ…
Báo cáo của CSIS rất đáng chú ý và tôi không ngạc nhiên. Trong vòng 15 năm tới, TQ hoàn toàn đủ sức đóng thêm 2-3 tàu sân bay nữa ngoài tàu sân bay Liêu Ninh đã có. Vì TQ đang tập trung sức mạnh quân sự để kiểm soát vùng biển bên trong chuỗi đảo thứ nhất, tức là khu vực Biển Đông và Biển Hoa Nam, nên đến năm 2030, việc TQ có 1-2 tàu sân bay thường trực ở Biển Đông cũng không phải chuyện lạ. Lúc đó, với các đội tàu sân bay này cộng thêm các căn cứ hải-không quân liên hợp trên các đảo TQ chiếm ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nếu các nước khác không có những bước đi mạnh mẽ ngay từ bây giờ, biển Đông sẽ thành ao nhà của TQ.
Sách trắng Quốc phòng TQ thẳng thắng tuyên bố “Quân đội TQ (PLA) trong tương lai gần sẽ hoạt động vượt ra khỏi chuỗi đảo thứ nhất cũng như tiến vào Ấn Độ Dương”. Điều này đặt ra câu hỏi, tham vọng bá quyền trên biển của Trung Quốc sẽ đe dọa cán cân quyền lực của Mỹ tại khu vực biển Đông ra sao?
Tại khu vực Đông Á, TQ có lợi thế “sân nhà”. Trong khi Mỹ là cường quốc toàn cầu, chỉ có thể tập trung khoảng 60% - 70% lực lượng vào châu Á thì TQ là cường quốc khu vực, có thể tập trung 100% ở đây. Do đó khi so sánh cán cân lực lượng, chỉ cần TQ đạt được 60% của Mỹ là họ đã có thể ngang ngửa với Mỹ ở khu vực rồi.
Riêng tại Biển Đông, TQ có thể có một tàu sân bay và hàng chục máy bay chiến đấu thế hệ 4, cộng với nhiều tàu nổi, tàu ngầm thường xuyên túc trực ở đây. Trong khi hiện nay trung bình mỗi ngày có một lượt tàu của Mỹ tuần tra ở Biển Đông thì TQ có cả chục lượt tàu.
Trong tương lai, TQ có xu hướng thu hẹp khoảng cách về sức mạnh cứng đối với Mỹ. Theo nghiên cứu của tôi (đã công bố trên một số tạp chí và chuyên khảo) thì giai đoạn tăng trưởng cao của TQ sẽ chấm dứt trong vòng 5 năm tới. Sau đó khả năng TQ lâm vào một cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế, có thể kéo theo biến động chính trị là rất cao. Dù vậy TQ vẫn thu hẹp đáng kể khoảng cách về sức mạnh cứng với Mỹ.
Nếu lấy “GDP công nghệ cao”, tức là phần GDP làm ra bởi các ngành công nghệ cao, làm chỉ số sức mạnh cứng, thì vào năm 2010, sức mạnh cứng của TQ bằng khoảng 21% của Mỹ và khoảng 72% của Nhật. Nhưng đến năm 2020, sức mạnh cứng của TQ sẽ lên đến khoảng 44% của Mỹ và khoảng 1,7 lần của Nhật. Đến năm 2030, sức mạnh cứng của TQ có thể bằng 60% của Mỹ và ba lần của Nhật. Trong trường hợp khủng hoảng ở TQ kéo dài và trầm trọng, GDP công nghệ cao của TQ vào năm 2030 vẫn có thể vào khoảng 30-40% của Mỹ, tức là trong mọi trường hợp thì khoảng cách về sức mạnh cứng giữa TQ và Mỹ vẫn thu hẹp hơn hiện nay.
Ảnh vệ tinh chụp ngày 14/2 (trái) cho thấy một số bệ phóng tên lửa đất đối không ở đảo Phú Lâm của Việt Nam. Ảnh: ImageSat International |
Ba “nước cờ” đến 2040 của TQ
Chiến lược phát triển hải quân của TQ mà CSIS nhắc lại bao gồm ba giai đoạn. Từ 2000 đến 2010, TQ nhắm tới việc thiết lập sự kiểm soát các vùng biển nằm trong chuỗi đảo thứ nhất nối liền từ Okinawa, Đài Loan và Philippines. Từ 2010 đến 2020, TQ tìm cách kiểm soát các vùng biển nằm trong chuỗi đảo thứ hai, nối liền từ chuỗi đảo Ogasawara tới Guam và Indonesia. Cuối cùng, từ 2020 đến 2040, TQ muốn thay thế Mỹ thống trị toàn bộ Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, sử dụng tàu sân bay làm chủ lực để kiểm soát biển.
Tuy nhiên cho đến lúc này (giai đoạn thứ hai), mọi sự vẫn chưa hề an bài để TQ thiết lập ưu thế áp đảo trong chuỗi đảo thứ nhất. Tôi nghĩ TQ chưa thể kiểm soát vùng biển bên trong chuỗi đảo thứ hai nếu họ chưa kiểm soát được vùng biển bên trong chuỗi đảo thứ nhất. Để giành sự kiểm soát ở đây, TQ thực hiện chiến lược lấn chiếm từng bước trong vùng xám, tức là gây nên khủng hoảng và căng thẳng nhưng không để dẫn đến đụng độ vũ trang. Đó chính là cách họ đã làm khi cắt cáp tàu Việt Nam năm 2011, chiếm bãi Scarborough của Philippines năm 2012, đưa giàn khoan HD-981 vào khoan trong vùng biển Việt Nam năm 2014, và xây đảo nhân tạo tại quần đảo Trường Sa từ 2013 đến nay, cũng như liên tục đâm, cướp tàu cá của Việt Nam từ nhiều năm nay.
Các đảo mà TQ chiếm ở Hoàng Sa và Trường Sa sẽ tạo cơ sở hậu cần và hạ tầng để TQ có thể triển khai hàng chục máy bay, tàu chiến, hàng trăm tàu cá đi ra khống chế toàn bộ Biển Đông theo cả ba chiều: trên trời, trên mặt nước, và dưới mặt nước. Hiện TQ đã có nhiều tàu chiến, tàu cảnh sát biển, tàu ngầm ở Biển Đông.
Sau này họ sẽ có cả tàu sân bay thường trực ở đây, đưa số lượng máy bay thường trực ở khu vực lên mức độ có thể áp đảo các nước khác. Họ chưa công bố vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông nhưng họ sẽ áp dụng các quy định đơn phương đủ mọi hình thức tuỳ nơi tuỳ lúc. Tức là họ thực hiện sự chiếm hữu và kiểm soát trên thực tế, rồi biến sự đã rồi thành sự hợp pháp sau khi các nước chấp nhận chúng như một thực tế không thể thay đổi được.
Quốc An