Minh bạch hoá cơ chế tiếp cận không gian biển 

Theo TS. Nguyễn Thị Gấm, Trưởng phòng Chính sách – Pháp chế, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam, quy định mới đã cắt giảm đáng kể thủ tục hành chính, minh bạch hoá cơ chế tiếp cận không gian biển và tăng quyền chủ động cho địa phương.

Đặc biệt, lần đầu tiên quy định các trường hợp miễn thủ tục giao khu vực biển cho mục đích nghiên cứu, giám sát môi trường, thí điểm công nghệ. Điều này mở đường cho sự tham gia mạnh mẽ hơn từ khu vực tư nhân, viện nghiên cứu quốc tế và các start-up công nghệ biển.

Cùng với đó, Quy hoạch không gian biển quốc gia giúp định vị rõ ràng các vùng biển ưu tiên cho bảo tồn, phát triển năng lượng tái tạo, khai thác tài nguyên, và đa mục tiêu. Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 cũng dành dư địa cho điện gió ngoài khơi lên đến 6–17 GW vào năm 2035, tạo nền tảng huy động dòng vốn xanh quốc tế.

Chuyển dịch về đầu tư kinh tế biển là xu hướng tất yếu

Cho rằng “tương lai của các quốc gia biển không nằm ở việc khai thác bao nhiêu tài nguyên, mà ở cách họ quản lý và làm giàu từ đại dương một cách bền vững”, TS. Dư Văn Toán, Viện Khoa học môi trường biển và hải đảo (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nhận định, chuyển dịch về đầu tư kinh tế biển là xu hướng tất yếu. Tới năm 2030, nền kinh tế đại dương có thể đạt hơn 3 nghìn tỷ USD và khoảng 40 triệu việc làm sẽ được tạo ra. Các lĩnh vực tăng trưởng nhanh nhất là điện gió ngoài khơi, nuôi trồng thủy sản biển, chế biến cá và dịch vụ cảng biển.

W-kinhtebienr 222.jpg
Việt Nam có lợi thế địa hình bờ biển dài, hệ thống chính sách đang dần hoàn thiện.

Hiện tại, khoảng 80% vốn đầu tư biển vẫn tập trung vào dầu khí. Tuy nhiên, đến năm 2050, tỷ lệ này sẽ giảm còn 25%, trong khi điện gió ngoài khơi sẽ chiếm 50%. Điều này phản ánh một xu hướng dịch chuyển lớn trong cấu trúc đầu tư toàn cầu.

Điều đáng chú ý là mức sinh lời từ kinh tế biển xanh vượt trội. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư (ROI) trung bình từ điện gió, nuôi biển, rừng ngập mặn đạt từ 3:1 đến 17:1, gấp nhiều lần so với đầu tư truyền thống. Báo cáo “Tương lai đại dương 2050” phát hành tháng 4/2024 do Tổ chức DNV công bố cho thấy, nếu đầu tư 2.000 tỷ USD vào bốn lĩnh vực biển xanh, có thể thu về lợi ích kinh tế – xã hội lên tới 15.500 - 22.800 tỷ USD trong 30 năm.

Cuộc đua kinh tế biển xanh

Một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á cũng đã bước vào cuộc đua kinh tế biển xanh với tốc độ khác nhau.

Trung Quốc dự kiến sẽ vươn lên chiếm 26% tổng vốn đầu tư kinh tế biển toàn cầu vào năm 2050, vượt qua EU.

Indonesia hiện dẫn đầu về diện tích nuôi biển và tiềm lực thủy sản, đồng thời đặt mục tiêu đến năm 2045 trở thành quốc gia biển hàng đầu thế giới, với trọng tâm là phát triển điện gió gần bờ, logistics đảo và bảo tồn đa dạng sinh học vùng biển đảo.

Philippines, dù diện tích không lớn, nhưng đã đi đầu trong phát triển năng lượng tái tạo ven biển với hơn 20 khu vực khảo sát điện gió ngoài khơi, và đã ban hành Đạo luật Kinh tế xanh nhằm thu hút đầu tư tư nhân vào các ngành biển phi truyền thống như du lịch sinh thái và hydrogen biển.

Trong khi đó, Thái Lan chú trọng phát triển các cảng nước sâu và chuỗi logistics biển gắn với hành lang công nghiệp phía Đông (EEC). Nước này đã thiết lập Khu bảo tồn biển quốc gia lớn nhất ASEAN và đặt mục tiêu 30% diện tích biển thuộc diện bảo vệ vào năm 2030.

So với các nước trong khu vực, Việt Nam có lợi thế địa hình bờ biển dài, tài nguyên gió tốt và hệ thống chính sách đang dần hoàn thiện. Tuy nhiên, để bắt kịp tốc độ, cần đẩy nhanh việc hình thành các cụm cảng biển xanh, hệ sinh thái đầu tư tích hợp và các cơ chế ưu đãi thực chất hơn để thu hút nhà đầu tư quốc tế.

Phát triển kinh tế biển xanh chính là con đường Việt Nam phải đi nếu muốn khẳng định vị thế của mình trong thế kỷ đại dương. Với tiềm năng tự nhiên dồi dào, vị trí địa chiến lược quan trọng và quyết tâm chính trị rõ ràng, Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để bứt phá trong hành trình hướng ra biển, làm giàu từ biển, vì một tương lai bền vững.