Sản xuất nông nghiệp đang phát sinh lượng chất thải và phụ phẩm khổng lồ, đặc biệt từ trồng trọt và chăn nuôi. Theo Báo cáo công tác bảo vệ môi trường ngành nông nghiệp năm 2023, chỉ riêng trong năm qua, phụ phẩm trồng trọt đã vượt 94 triệu tấn, chất thải chăn nuôi đạt 68,92 triệu tấn. Những con số này không chỉ phản ánh quy mô sản xuất tăng nhanh, mà còn gióng lên hồi chuông cảnh báo về sức chịu tải của môi trường nông thôn.

Tuy nhiên, khả năng xử lý vẫn chưa theo kịp tốc độ phát sinh. Khoảng 70% phụ phẩm trồng trọt bị bỏ lại ngoài đồng, đốt hoặc xả trực tiếp ra môi trường. Chất thải chăn nuôi cũng còn khoảng 50% chưa được xử lý, đặc biệt phổ biến ở các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ nằm xen kẽ trong khu dân cư. Việc thiếu vốn, hạn chế về kỹ thuật và diện tích khiến nhiều hộ không đủ khả năng đầu tư hệ thống xử lý bài bản, dù áp lực môi trường ngày càng lớn.

Dù vậy, nhiều mô hình kinh tế tuần hoàn đã được đưa vào thử nghiệm những năm gần đây. Một số hộ và cơ sở sản xuất đã tận dụng chất thải làm phân bón, thức ăn chăn nuôi hoặc tái sử dụng theo chu trình khép kín để vừa giảm ô nhiễm, vừa tăng hiệu quả kinh tế. Song nhìn chung, hiệu quả còn chưa cao và chưa đồng đều giữa các vùng do đặc thù chăn nuôi nhỏ lẻ vẫn chiếm phần lớn.

W-Chất thải nông nghiệp tăng cao.jpg
Sản xuất nông nghiệp đang phát sinh lượng phụ phẩm khổng lồ, đặc biệt từ trồng trọt và chăn nuôi. 

Hiện các hộ chăn nuôi chủ yếu sử dụng những biện pháp đơn giản, chi phí thấp như hầm biogas, đệm lót sinh học hoặc hố ủ phân. Đây là những hình thức phù hợp với điều kiện nông hộ, giúp giảm mùi hôi và xử lý chất thải hữu cơ. Tuy nhiên, mức độ áp dụng còn phụ thuộc nhiều vào sự chủ động của từng hộ dân, nên chưa tạo thành mặt bằng chung về xử lý chất thải trong toàn vùng.

Một số mô hình mới đã tạo được dấu ấn. Hiện có 10 tỉnh đăng ký xây dựng mô hình xử lý và tuần hoàn chất thải chăn nuôi; trong đó Trà Vinh (cũ) đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, Nghệ An và Ninh Thuận (cũ) đang triển khai. Một số địa phương khác gặp vướng mắc về thủ tục môi trường, kéo dài thời gian thực hiện.

Đáng chú ý, mô hình nuôi ruồi lính đen xử lý chất thải chăn nuôi tại Thừa Thiên Huế cũ và Hà Tĩnh được xem là hướng đi hiệu quả. Mô hình thí điểm do Cục Chăn nuôi và Thú y triển khai cho thấy ấu trùng ruồi lính đen có thể phân hủy chất thải nhanh, tạo nguồn thức ăn chăn nuôi và phân bón cho cây trồng. Mùi hôi và ô nhiễm nước, không khí tại khu vực mô hình giảm rõ rệt, tạo hiệu ứng lan tỏa sang các hộ dân xung quanh.

Tại Thái Nguyên, các cơ sở được hướng dẫn áp dụng công nghệ xử lý chất thải hữu cơ như ủ phân compost, dùng enzym và men vi sinh, hay nuôi trùn quế và ruồi lính đen để tạo phân hữu cơ. Ninh Bình hướng dẫn và hỗ trợ 6 mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ tại các xã đạt chuẩn nông thôn mới. Hà Tĩnh đã xây dựng hơn 13.600 bể biogas, một số trang trại đầu tư công nghệ tách ép phân, áp dụng MBBR hoặc chế phẩm sinh học; hơn 80% phụ phẩm trồng trọt được sử dụng thay vì bỏ đi. Lâm Đồng cũng ghi nhận 45,5% trang trại quy mô lớn và vừa đã đầu tư hệ thống xử lý theo quy định.

Dù có nhiều chuyển biến tích cực, nhưng thực trạng chung vẫn cho thấy khoảng cách lớn giữa nhu cầu xử lý và khả năng đáp ứng của các hộ chăn nuôi. Nhiều mô hình công nghệ tiên tiến chưa phù hợp với quy mô nhỏ lẻ, dẫn đến khó nhân rộng. Không ít địa phương còn tình trạng chăn nuôi xen kẽ trong khu dân cư, gây ô nhiễm và tạo bức xúc kéo dài.

Quy hoạch vùng chăn nuôi đã được triển khai nhưng công tác thực thi chưa thật sự nghiêm. Việc gắn quy hoạch chăn nuôi với quy hoạch bảo vệ môi trường vẫn là yêu cầu cấp thiết, đòi hỏi các địa phương phải rà soát, điều chỉnh và giám sát chặt chẽ hơn.