Chiến tranh kết thúc ở châu Âu nhưng ở Viễn Đông và Thái Bình Dương, quân Nhật với lực lượng hùng hậu, đặc biệt là lục quân với 5,5 triệu người vẫn kháng cự quyết liệt. Giới quân sự Mỹ tính toán rằng phải mất 1 năm rưỡi mới kết thúc chiến tranh với Nhật.

Thực hiện nghĩa vụ đã cam kết với các nước Đồng minh, nhằm vảo vệ an toàn biên giới phía đông và loại trừ một lò lửa chiến tranh ở châu Á, ngày 5/8/1945, Liên Xô huỷ bỏ hiệp ước trung lập và ngày 8/8 tuyên chiến với Nhật. Ngày 9/8, chiến dịch Mãn Châu bắt đầu.

Mục tiêu trực tiếp của chiến dịch Mãn Châu là đập tan đạo quân Quan Đông của Nhật Bản, giải phóng vùng Đông Bắc Trung Quốc và Triều Tiên; loại bỏ một cơ sở kinh tế – quân sự, một bàn đạp của Nhật dùng chống Liên Xô, Mông Cổ; và thúc đẩy kết thúc Thế chiến 2.

{keywords}
Quân đội Liên Xô bắt giữ được nhiều xe tăng Nhật. Ảnh : Sputnik

Các đơn vị quân đội Liên Xô tham gia chiến dịch có: Phương diện quân (PDQ) Zabaikal do Nguyên soái R. Malinovsky chỉ huy, PDQ Viễn Đông I của Nguyên soái K. Mereshkov, PDQ Viễn Đông II của Đại tướng M. Pukarev, Hạm đội Thái Bình Dương do Đô đốc I. Yumashev chỉ huy và Hải đoàn Amur.

Ngoài ra, còn có Tập đoàn quân Mông Cổ của Nguyên soái Kh. Choibansan. Tổng binh lực khoảng 1,5 triệu người, 29.000 pháo và súng cối, hơn 5.200 xe tăng và pháo tự hành, gần 5.200 máy bay chiến đấu. Tổng chỉ huy chiến dịch là Nguyên soái A. Vasilyevsky - Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô tại Viễn Đông.

Về phía Nhật Bản, chủ yếu là lực lượng thuộc đạo quân Quan Đông dưới quyền chỉ huy của Đại tướng Yamada Otozo làm Tư lệnh và Trung tướng Hata Hikosaburo làm Tham mưu trưởng. Đạo quân gồm trên 1 triệu người, 1.155 xe tăng, 5.360 pháo, cối, 1.800 máy bay, 25 tàu chiến. Ngoài ra, còn có lực lượng hiến binh, cảnh sát Nhật, cùng quân đội Mãn Châu và Nội Mông.

Đạo quân Quan Đông được huấn luyện và trang bị tốt. 

Để chống trả liên quân Xô - Mông, quân Nhật dựa vào các tuyến phòng ngự vững chắc và các dãy núi lớn để cố thủ. Họ đã xây dựng 17 khu vực phòng thủ dài đến 1.000km với trên 8.000 cứ điểm hoả lực bền vững.

Chiến dịch bắt đầu bằng 3 đòn công kích từ 3 hướng (Mông Cổ, khu vực sông Amr và duyên hải) của quân đội Liên Xô. Chỉ sau 10 ngày, tuyến phòng thủ của quân Nhật đã bị chọc thủng, Hồng quân tiến sâu vào Đông Bắc Trung Quốc 400-800km từ hướng tây, 200-300km từ hướng đông bắc. Tiếp đó, Liên Xô tiến vào bình nguyên Mãn Châu, chia cắt quân đội Nhật thành nhiều cụm rồi bao vây tiêu diệt, không để đối phương có cơ hội chống trả có tổ chức.

Các đơn vị đổ bộ đường không Liên Xô nhảy dù đánh chiếm những vị trí then chốt nằm sâu trong hậu phương địch như Cáp Nhĩ Tân, Cát Lâm, Thẩm Dương, Trường Xuân, Đại Liên, cảng Lữ Thuận, Bình Nhưỡng, cùng một số thành phố khác ở Mãn Châu và Triều Tiên.

Sáng 19/8, tại đại bản doanh ở Trường Xuân, Tư lệnh đạo quân Quan Đông-Yamada tự tay tháo kiếm trao cho Đại diện Hồng quân, chấp nhận là tù binh của quân đội Liên Xô. Tối 19/8, Yamada và “Thủ tướng” Mãn Châu kí biên bản đầu hàng. Cờ Nhật bị hạ xuống và quốc kỳ Liên Xô tung bay trên nóc toà nhà bộ chỉ huy đạo quân Quan Đông.

Chiến dịch Mãn Châu là chiến dịch chưa từng có về quy mô cơ động lực lượng và phương tiện (từ phía tây sang phía đông Liên Xô, trên cự li 9.000-12.000km). Chiến dịch là một mẫu mực về tiến công thần tốc trong điều kiện rừng tai-ga và sa mạc, bằng các đòn đột kích mạnh mẽ từ nhiều hướng, hợp điểm, bao vây tiêu diệt địch, trong đó sử dụng các tập đoàn quân xe tăng và kị binh cơ giới làm thê đội I.

Các đơn vị đổ bộ đường không đánh bất ngờ vào hậu phương địch cũng góp phần làm cho chiến dịch kết thúc sớm, giảm thương vong cho bộ đội. Bằng các thủ thuật nghi binh, các tướng lĩnh Liên Xô đã làm bộ tham mưu Nhật hoàn toàn bị bất ngờ không chỉ về chiến lược, chiến dịch mà còn bị bất ngờ về chiến thuật.

Tính chung, trong chiến dịch kéo dài 23 ngày đêm trên một mặt trận dài trên 5.000km này, phía Nhật Bản đã mất 70.000 quân, 600.000 người bị bắt làm tù binh, trong đó có 149 viên tướng.

Chiến thắng của quân đội Liên Xô đã giải phòng toàn bộ vùng Đông Bắc Trung Quốc và Triều Tiên, loại bỏ nguy cơ xâm lược đối với Liên Xô ở vùng Viễn Đông, tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Viễn Đông và Đông Nam Á.

Thất trận nặng nề, nước Nhật bị tê liệt hoàn toàn. Nhật sau đó đã phải ký biên bản đầu hàng vô điều kiện. Văn kiện này đã đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của chủ nghĩa phát xít, kết thúc Thế chiến 2.

Nguyên Phong