Sự tăng trưởng nhanh chóng của các dịch vụ tài chính và những tác động của đại dịch COVID-19 cũng khiến trong một số lĩnh vực, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh có xu hướng tăng, nhiều diễn biến phức tạp, tinh vi hơn, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người tiêu dùng tài chính. Vì vậy, vấn đề bảo vệ người tiêu dùng tài chính được đặt ra khá cấp thiết.
Trong 10 năm gần đây, sự phổ cập của điện thoại di động trên toàn thế giới, sự phát triển dịch vụ thanh toán điện tử, dịch vu thanh toán qua di động̣ (mobile money) trên toàn cầu, sự phát triển của công nghệ ngân hàng số... đã làm cho cho số lượng người sử dụng dịch vụ tài chính tăng nhanh, đạt bình quân 180 triệu người tiêu dùng mới mỗi năm.
Bên cạnh đó, sự gia tăng về tần suất và quy mô giá trị mỗi giao dịch tài chính, cùng với các ngân hàng, tổ chức trung gian thanh toán, tổ chức tài chính vi mô cung cấp các dịch vụ tài chính, thì các tổ chức trung gian tài chính, các công ty công nghệ cũng tham gia trực tiếp vào thị trường dịch vụ tài chính cho người tiêu dùng (Hiệp hội Ngân hàng, 2021).
Tại Việt Nam, trong bối cảnh đại dịch COVID-19, hàng loạt doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức phải chuyển sang làm việc từ xa. Song hành cùng đó, các phần mềm làm việc trực tuyến được tìm kiếm và tải về rầm rộ. Nhiều đơn vị phải mở hệ thống mạng để nhân viên có thể truy cập và làm việc từ xa. Điều này tạo môi trường cho kẻ xấu khai thác lỗ hổng, tấn công, đánh cắp thông tin. Cách thức chính của hacker là lừa người dùng cài đặt phần mềm gián điệp trên điện thoại để lấy trộm tin nhắn OTP, thực hiện giao dịch bất hợp pháp.
Hiện nay, tại Việt Nam khung pháp lý bảo vệ người tiêu dùng còn rất hạn chế. Năm 1999, Quốc hội ban hành Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng. Luật số 59/2010/QH12 bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng do Quốc hội khóa XII ban hành 2010, không có tham chiếu riêng cho người tiêu dùng trong lĩnh vực tài chính.
Tuy nhiên, Việt Nam chưa có Luật cụ thể, riêng biệt chuyên về vấn đề bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực tài chính, trong khi Các luật hay các quy định về giao dịch trong lĩnh vực tài chính, ví dụ Luật Các tổ chức tín dụng 2010 có một điều khoản quy định về việc bảo vệ quyền lợi của khách hàng (Điều 10) nhưng chưa mang tính tổng quát. Ngoài ra, các quy định bảo vệ người tiêu dùng tài chính thường thấy trong các công văn quy định của các đơn vị như Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, hay Ủy ban Chứng khoán Nhà nước nhưng cũng khá chung chung.
Việt Nam hiện có 5 cơ quan liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực tài chính, bao gồm: Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quản lý trong lĩnh vực ngân hàng, Bộ Tài chính quản lý lĩnh vực chứng khoán và bảo hiểm, Bộ Công Thương, Bộ Thông tin – Truyền thông và Hiệp hội Bảo vệ người tiêu dùng chịu trách nhiệm bảo vệ người tiêu dùng nói chung. Cả 5 cơ quan này đều có khả năng tham gia vào quá trình bảo vệ người tiêu dùng nhưng các cơ quan này đều chưa có bộ phận chuyên trách cũng như quy trình quản lý cụ thể để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ người tiêu dùng, chưa có cơ chế phối hợp để xử lý các xung đột lợi ích xảy ra khi sử dụng sản phẩm, dịch vụ tài chính.
Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có mức độ tiếp cận đến các dịch vụ tài chính ở mức thấp. Tỷ lệ người trưởng thành có tài khoản ngân hàng tại Việt Nam năm 2017 là 31% (Global Findex Database, 2017). Hiểu biết về tài chính của người dân Việt Nam, đặc biệt người dân vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa hiện ở mức khá thấp so với các nước trên thế giới và trong khu vực với chỉ số hiểu biết tài chính ở người trưởng thành là 24% (Leora Klapper và cộng sự, 2014). Chính vì vậy, vấn đề nâng cao hiểu biết tài chính của người dân là một vấn đề cấp bách.
Nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục và nâng cao hiểu biết tài chính để góp phần bảo vệ người tiêu dùng tài chính, trên thế giới đã có nhiều sáng kiến quốc tế, các cải cách sâu rộng ở tầm quốc gia. Ở nhiều nước, các cơ quan quản lý, giám sát tài chính đã tham gia vào hoạt động giáo dục hiểu biết tài chính cho người tiêu dùng.
Thời gian tới, để nâng cao hiệu quả bảo vệ người tiêu dùng tài chính ở Việt Nam, TS. Tôn Thu Hiền và NCS. Đinh Thị Thanh Vân khuyến cáo cần chú trọng triển khai các giải pháp sau:
Một là, thành lập các cơ quan chuyên trách thực hiện bảo vệ người tiêu dùng tài chính. Người tiêu dùng sản phẩm dịch vụ tài chính hết sức đặc thù và ngày càng có nhiều rủi ro trong bối cảnh chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng và thị trường tài chính trở nên phức tạp hơn. Người tiêu dùng mất niềm tin vào hệ thống tài chính có thể dẫn tới sự phát triển của cả nền kinh tế. Chính vì vậy, lĩnh vực tài chính ngân hàng luôn cần giám sát, có các quy định riêng đặc thù và bảo vệ người tiêu dùng tài chính cũng cần được chú ý và tách riêng.
Hai là, hoàn thiện đồng bộ hệ thống văn bản, pháp lý để có cơ chế bảo vệ người tiêu dùng tốt nhất. Việt Nam có thể đi theo mô hình quản lý, giám sát hình chóp hoặc hạt nhân, tuy nhiên dù theo mô hình nào thì cũng cần có các văn bản, quy định rõ ràng trong từng lĩnh vực dịch vụ tài chính như: Ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, hưu trí, thuế… để người tiêu dùng có thể dễ dàng khiếu nại và được giải quyết các vấn đề phát sinh. Các cơ chế, văn bản quy định cũng cần làm rõ trách nhiệm của các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính, minh bạch các thông tin sản phẩm, quy định các khung hình phạt và cơ chế giám sát rõ ràng với các tổ chức này.
Thứ ba, đẩy mạnh giáo dục tài chính và tài chính toàn diện góp phần bảo vệ người tiêu dùng tài chính ở Việt Nam. Việc tăng cường tuyên truyền, phổ biến giúp người tiêu dùng đưa ra được quyết định phù hợp với nhu cầu và khả năng của mình và tối đa hóa lợi ích khi tiêu dùng các sản phẩm tài chính. Tăng cường thông tin cho người tiêu dịch vụ tài chính về các hành vi vi phạm pháp luật của các định chế tài chính cũng giúp người tiêu dùng có đủ thông tin để lựa chọn tổ chức cung cấp dịch vụ phù hợp.
Ngọc Dũng, Thu Hiền, Thảo Hiền