Trong đó, nội dung được cộng đồng doanh nghiệp quan tâm là việc tháo gỡ các quy định pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo, chưa rõ ràng, tạo gánh nặng chi phí tuân thủ… liên quan đến lĩnh vực đầu tư và tài chính. 

Việc chấp thuận nhà đầu tư không thông qua đấu giá, đấu thầu

Khoản 4 Điều 29 Luật Đầu tư (Khoản 4 Điều 25 dự thảo Luật Đầu tư Kinh doanh hiện đang được lấy ý kiến) quy định về các trường hợp được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư.

Qua nghiên cứu và khảo sát, nhà đầu tư phát hiện tiềm năng phát triển của khu vực lân cận, tiết giảm được chi phí, khả thi để thực hiện các dự án có mục tiêu liên quan với dự án hiện hữu. Trường hợp này việc tổ chức đấu giá, đấu thầu để lựa chọn nhà đầu tư là không cần thiết và tốn kém chi phí thủ tục cho nhà nước.

Việc bổ sung “chuỗi dự án” vào trường hợp được chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời với chấp thuận nhà đầu tư là phù hợp với nhiệm vụ, giải pháp “chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng” theo Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 04/05/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân. Đây là cách thức để cắt giảm thủ tục, thúc đẩy tiến độ thực hiện dự án, đáp ứng mục tiêu tăng trưởng cao.  

Đơn cử, một số dự án điện gió Nhà đầu tư đã được chính quyền cấp Tỉnh chấp thuận cho khảo sát hoặc đo gió. Sau khi nhà đầu tư đã bỏ chi phí để thực hiện khảo sát, đo gió, nhà nước lại tiếp tục tổ chức đấu thầu thì sẽ tốn kém hai lần chi phí, tạo gánh nặng cho ngân sách. Trong trường hợp này chấp thuận cho nhà đầu tư thực hiện các bước tiếp theo sẽ tiết kiệm chi phí và đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong quản lý của chính quyền.

w dien mat troi 78070.png
Ảnh: Xuân Ngọc

Vì vậy, đề xuất bổ sung thêm hai trường hợp được chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư vào Khoản 4 Điều 25 dự thảo Luật Đầu tư Kinh doanh như sau:

- Chuỗi dự án do nhà đầu tư đề xuất bao gồm ít nhất 05 dự án có mục tiêu kết nối với nhau và hỗ trợ lẫn nhau để phát triển, tạo ra hiệu quả kinh tế - xã hội cao, trong đó có ít nhất một dự án hiện hữu đang được nhà đầu tư vận hành và một số dự án đã được nhà đầu tư khảo sát và đề xuất với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. 

- Dự án điện gió mà nhà đầu tư đã được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cho thực hiện khảo sát hoặc đo gió trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành.

Ngoài ra, cần quy định rõ ràng trường hợp dự án không sử dụng vốn ngân sách nhà nước và thuộc trường hợp thu hồi đất mà nhà đầu tư lựa chọn phương án thỏa thuận và đã hoàn thành việc nhận quyền sử dụng đất, không đề xuất thu hồi đất (điểm c Khoản 1 Điều 127 Luật Đất đai 2024) có thuộc trường hợp chấp thuận nhà đầu tư hay không?

Việc đánh giá sơ bộ về năng lực của nhà đầu tư dự án năng lượng

Theo quy định tại Khoản 4 Điều 39 Nghị định 115/2024/NĐ-CP (được sửa đổi bởi Khoản 14 Điều 2 Nghị định 225/2025/NĐ-CP), tiêu chuẩn đánh giá sơ bộ về năng lực của nhà đầu tư đối với dự án năng lượng chỉ bao gồm yêu cầu vốn chủ sở hữu.
Quy định như trên sẽ dẫn đến số lượng nhà đầu tư tham gia nộp hồ sơ quan tâm rất nhiều mà không tính đến khả năng đáp ứng kinh nghiệm, dẫn đến nhiều nhà đầu tư không đáp ứng đủ yêu cầu và cơ quan quản lý phải tốn thêm chi phí sàng lọc không cần thiết.

Mặt khác, nếu nhà đầu tư đã được chính quyền cấp tỉnh chấp thuận cho khảo sát hoặc đo gió thì chắc chắn sẽ đưa ra được các đề xuất khả thi, hiệu quả về dự án năng lượng. 

Vì vậy, đề xuất bổ sung điểm d vào sau điểm c Khoản 4 Điều 39 Nghị định 115/2024/NĐ-CP như sau:

Tiêu chuẩn đánh giá sơ bộ về năng lực của nhà đầu tư, gồm: d) Đối với dự án năng lượng, ngoài các tiêu chuẩn quy định tại điểm a khoản này, tiêu chuẩn đánh giá sơ bộ về năng lực gồm yêu cầu nhà đầu tư đã được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cho thực hiện khảo sát hoặc đo gió của dự án.

Miễn thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở

Khoản 2 Điều 4 Luật thuế thu nhập cá nhân quy định về thu nhập được miễn thuế gồm: Thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất ở của cá nhân trong trường hợp cá nhân chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất.
Một số người dân đã có một nhà ở và tích lũy thu nhập qua nhiều năm lao động vất vả mới mua được thêm một căn hộ, nhà nghỉ dưỡng hoặc nhà nghỉ dưỡng lão trong dự án ở vùng sâu, vùng xa, rừng núi, ven biển… điều kiện kinh tế còn khó khăn. Với trường hợp này, không nên coi căn hộ, nhà nghỉ dưỡng hoặc nhà nghỉ dưỡng lão là nhà ở thứ hai vì những căn hộ hoặc nhà đó thường gắn với đất thương mại, dịch vụ có thời hạn sử dụng tối đa 50 năm.

Vì vậy, đề xuất sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 4 Luật thuế thu nhập cá nhân theo hướng: Trường hợp cá nhân sở hữu thêm một nhà có mục đích sử dụng để nghỉ dưỡng, dưỡng lão gắn liền với đất thương mại dịch vụ, sử dụng đất có thời hạn thì không được coi là nhà ở để tính thu nhập chịu thuế khi chuyển nhượng.

Công khai thông tin người nộp thuế

Khoản 1 Điều 100 Luật Quản lý thuế (Khoản 3 Điều 7 dự thảo Luật Quản lý thuế hiện đang được lấy ý kiến) quy định về công khai thông tin người nộp thuế trong các trường hợp trốn thuế, chây ỳ không nộp đúng thời hạn; nợ tiền thuế; vi phạm pháp luật về thuế…

Trong thực tế, có một số bên bán hàng ở tình trạng “không hoạt động tại địa chỉ kinh doanh đã đăng ký” hoặc “bỏ trốn”, bên mua hàng đã trả tiền và đã có hóa đơn nhưng không được cơ quan thuế chấp thuận thì vẫn bị xuất toán. Các sai sót trên hoàn toàn không phải do bên mua nhưng khi cơ quan thuế công khai kết luận thanh tra thì có thể có tình trạng đã lợi dụng để làm ảnh hưởng đến uy tín của bên mua.

Vì vậy, để bảo vệ uy tín của doanh nghiệp nên sửa thành “sau khi đã hết thời hạn thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế theo quy định mà người nộp thuế chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ nghĩa vụ, cơ quan quản lý thuế được công khai thông tin người nộp thuế. Trường hợp các cơ quan, đơn vị, cá nhân vi phạm việc công khai, đăng tải thông tin người nộp thuế sẽ phải chịu xử lý trách nhiệm theo quy định pháp luật liên quan.”

Giao dịch liên kết

Điều 13, 14 và 15 của Nghị định 132/2020/NĐ-CP quy định về các phương pháp xác định giá giao dịch liên kết bao gồm so sánh giá giao dịch liên kết với giá giao dịch độc lập, so sánh tỷ suất lợi nhuận của người nộp thuế với tỷ suất lợi nhuận của các đối tượng so sánh độc lập, phân bổ lợi nhuận giữa các bên liên kết.

Khoản 3 Điều 16 quy định về mức tối đa tổng chi phí lãi vay sau khi trừ lãi tiền gửi và lãi cho vay phát sinh trong kỳ của người nộp thuế được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp không vượt quá 30% của tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trong kỳ cộng chi phí lãi vay sau khi trừ lãi tiền gửi và lãi cho vay phát sinh trong kỳ cộng chi phí khấu hao phát sinh trong kỳ của người nộp thuế.

Các doanh nghiệp mặc dù có quan hệ liên kết nhưng về mặt pháp lý là những tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân độc lập, có mã số thuế riêng, có bộ máy riêng và hạch toán độc lập với nhau. Khi hợp đồng giữa các doanh nghiệp đã được đàm phán trên cơ sở ý chí tự nguyện, đã tuân theo trình tự nội bộ của từng bên theo Luật Doanh nghiệp, thực hiện nghĩa vụ tài chính đầy đủ theo quy định, nhưng vẫn bị hạn chế về “giá giao dịch”, “lợi nhuận” và “tổng chi phí lãi vay” là không bảo đảm nguyên tắc “tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận” của Bộ luật Dân sự.

Vì vậy, nên sửa đổi quy định quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết theo hướng đối với hợp đồng giữa các công ty liên kết, pháp luật cần quy định cụ thể giới hạn tỷ suất lợi nhuận khoảng bao nhiêu % cho từng lĩnh vực, ngành nghề để các doanh nghiệp có cơ sở thực hiện, thay cho phương pháp “so sánh giá”, “so sánh tỷ suất lợi nhuận”, “phân bổ lợi nhuận”. Mặt khác, nên bãi bỏ quy định về mức tối đa tổng chi phí lãi vay được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết.

Phong Lan, Hiệp hội DNDN Cựu Chiến binh Việt Nam