Tuần Việt Nam giới thiệu bài phân tích về quan hệ Trung - Mỹ, dưới góc nhìn khác, từ lăng kính của Trung Quốc, để bạn đọc tham khảo.

"Nước lớn" là một cụm từ rất chung chung, nhưng Trung Quốc xứng đáng với từ này xét theo bất cứ góc độ nào: sự rộng lớn và vị trí chiến lược của lãnh thổ, quy mô và sự năng động của dân số, giá trị và tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế, thị phần lớn của nước này trong thương mại toàn cầu, và sức mạnh quân sự. Trung Quốc đã trở thành một trong số rất ít nước có lợi ích quốc gia rất lớn ở mọi nơi trên thế giới, và gây sự chú ý dù là tự nguyện hay bất đắc dĩ của tất cả các quốc gia khác và mọi tổ chức quốc tế. Và có thể quan trọng nhất, Trung Quốc là nước duy nhất được mọi người xem là một mối đe dọa tiềm ẩn đối với vai trò bá chủ của Mỹ. Thực vậy, sự nổi lên của Trung Quốc dẫn tới những lo ngại rằng nước này sẽ sớm lấn át các nước láng giềng và một ngày nào đó chiếm ngôi của Mỹ trở thành một lãnh đạo toàn cầu.

Nhưng việc nhiều nước nhìn Trung Quốc như một cường quốc hiếu chiến và bành trướng là sai lầm. Dù sức mạnh tương đối của Trung Quốc đã tăng đáng kể trong những thập kỷ gần đây, các nhiệm vụ chính của chính sách ngoại giao Trung Quốc là phòng thủ và không thay đổi nhiều kể từ thời Chiến tranh Lạnh: phá mọi thế lực gây bất ổn từ bên ngoài, tránh mất lãnh thổ, giảm mối nghi ngại của các nước láng giềng, và duy trì tăng trưởng kinh tế. Điều đã thay đổi trong hai thập kỷ qua là Trung Quốc hiện đã hội nhập sâu vào hệ thống kinh tế thế giới, trong đó các ưu tiên đối nội và khu vực của họ đã trở thành một phần của một cuộc tìm kiếm lớn hơn: đó là xác định một vai trò toàn cầu phục vụ cho các lợi ích của Trung Quốc, đồng thời giành được sự công nhận của các nước khác.

Đứng đầu các nước khác đó, tất nhiên là Mỹ, và việc quản lý quan hệ Mỹ - Trung là thách thức ngoại giao lớn nhất đối với Bắc Kinh. Và đúng như người Mỹ tự hỏi liệu sự nổi lên của Trung Quốc có tốt cho các lợi ích của Mỹ hay lại là một mối đe dọa tiềm tàng, các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc cũng đặt câu hỏi về việc Mỹ có ý định sử dụng sức mạnh của mình để giúp đỡ hay làm đau Trung Quốc.

Người Mỹ đôi khi xem nhà nước Trung Quốc là khó hiểu. Nhưng vì cách mà quyền lực được phân chia trong hệ thống chính trị của Mỹ và sự đổi ngôi quyền lực giữa hai đảng chính tại Mỹ, người Trung Quốc cũng rất khó xác định được các ý định của Mỹ. Tuy nhiên, trong những thập kỷ gần đây, một chiến lược dài hạn của Mỹ dường như đã nổi lên trong một loạt các hành động của Mỹ đối với Trung Quốc. Vì vậy, việc Trung Quốc cố gắng phân tích Mỹ không còn là một công việc vô vọng - mà thực tế là cần thiết.

Hầu hết người Mỹ sẽ ngạc nhiên khi biết bao nhiêu phần trăm người Trung Quốc tin rằng Mỹ là một nước theo chủ nghĩa xét lại đang tìm cách ngăn cản tầm ảnh hưởng chính trị của Trung Quốc và gây tổn hại tới các lợi ích của nước này. Quan điểm này được hình thành không chỉ từ cách hiểu của Bắc Kinh về Washington mà còn bởi cái nhìn rộng hơn của người Trung Quốc về hệ thống quốc tế và vị thế của nước họ trong đó, một cái nhìn xuất phát chủ yếu từ cảm giác rõ rệt của họ về tính dễ bị tổn thương của chính mình.

Việc quản lý quan hệ Mỹ - Trung là thách thức ngoại giao lớn nhất đối với Bắc Kinh. Ảnh minh họa

Bốn vòng cung

Thế giới trong con mắt Bắc Kinh là một mảnh đất của những rủi ro, nguy hiểm, bắt đầu với những đường phố bên ngoài cửa sổ của nhà hoạch định chính sách, tới những đường biên giới trên bộ và các hải trình xa hàng nghìn dặm, tới những mỏ khoáng sản và giếng dầu ở các lục địa xa xôi. Các mối đe dọa này có thể được mô tả trong bốn vòng cung đồng tâm.

Vòng đầu tiên, toàn bộ lãnh thổ mà Trung Quốc đang quản lý hoặc đòi hỏi, Bắc Kinh cho rằng sự ổn định chính trị và toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc đang bị đe dọa bởi các tác nhân và thế lực bên ngoài. So với các nước rộng lớn khác, Trung Quốc phải đối phó với một số lượng nhiều hơn gồm những tác nhân bên ngoài đang cố tình tác động tới sự tiến triển của họ, thường theo cách mà chính quyền Trung Quốc coi là có hại cho sự sống còn của mình. Các nhà đầu tư nước ngoài, các cố vấn phát triển, khách du lịch, và sinh viên đổ tới nước này ùn ùn cùng với những ý tưởng của mình về việc Trung Quốc nên thay đổi thế nào. Các quỹ và chính phủ nước ngoài cung cấp hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho các nhóm Trung Quốc nhằm thúc đẩy xã hội dân sự. Những phần từ ly khai ở Tây Tạng và Tân Cương nhận sự hỗ trợ về tinh thần và ngoại giao và đôi khi cả về vật chất từ các cộng đồng người dân tộc và các chính phủ đồng cảm từ bên ngoài. Dọc đường bờ biển, các nước láng giềng tranh chấp lãnh hải mà Bắc Kinh đòi là của mình. Đài Loan thì có chính phủ riêng, được 23 quốc gia công nhận về ngoại giao và được hưởng sự đảm bảo an ninh của Mỹ.

Tại các đường biên giới của Trung Quốc, các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt với vòng cung thứ hai, liên quan tới các quan hệ của Trung Quốc với 14 nước liền kề. Không nước nào, ngoại trừ Nga, có nhiều láng giềng sát vách như vậy. Đó là 5 nước mà Trung Quốc đã giao chiến trong 70 năm qua (Ấn Độ, Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc và Việt Nam), và một số nước nằm dưới sự cai trị của những chính quyền bất ổn. Không ai trong số các láng giềng này thấy các lợi ích quốc gia cốt lõi của mình tương đồng với của Bắc Kinh.

Nhưng Trung Quốc hiếm khi đối xử một cách xa xỉ với bất cứ láng giềng nào của mình trong bối cảnh thuần túy song phương. Vòng cung thứ ba của những lo ngại an ninh của Trung Quốc gồm các nền chính trị của 6 khu vực địa chính trị khác nhau bao quanh Trung Quốc: Đông Bắc Á, Đại Tây Dương, Đông Nam Á lục địa, Đông Nam Á biển, Nam Á và Trung Á. Mỗi khu vực này đều có các vấn đề về ngoại giao và an ninh khu vực phức tạp riêng.

Cuối cùng, đây là vòng cung thứ tư: thế giới bên ngoài các láng giềng gần của Trung Quốc. Nước này thực sự bước vào vòng cung xa nhất này từ cuối những năm 1990 và vì những mục đích hạn chế: nhằm đảm bảo các nguồn hàng hóa, như dầu lửa; để tiếp cận các thị trường và đầu tư; để có sự ủng hộ về ngoại giao cho việc cô lập Đài Loan và Đạtlai Lạtma của Tây Tạng; và để tuyển đồng minh cho các quan điểm của Trung Quốc về chuẩn mực quốc tế và các cơ chế pháp lý.

Nước Mỹ khó hiểu

Trong từng vòng cung an ninh nói trên, Mỹ có mặt ở khắp nơi. Đây là tác nhân bên ngoài tác động mạnh nhất tới các vấn đề nội bộ của Trung Quốc: là người bảo đảm cho sự nguyên trạng của Đài Loan, là nước có sự hiện diện hải quân lớn nhất tại các biển Hoa Đông và biển Đông, là đồng minh quân sự chính thức hoặc không chính thức của nhiều nước láng giềng Trung Quốc, và là nước có vị thế lớn nhất và người bảo trợ cho sự tồn tại của các cơ chế pháp lý quốc tế.

Sự hiện diện ở mọi nơi này đồng nghĩa với việc Trung Quốc hiểu các động cơ của Mỹ xác định cách xử lý của Trung Quốc với hầu hết các vấn đề an ninh của mình.

Bắt đầu từ Tổng thống Richard Nixon, người đã thăm Trung Quốc năm 1972, một loạt các lãnh đạo Mỹ từng đảm bảo thiện chí của mình đối với Trung Quốc. Mọi chính quyền tổng thống Mỹ đều nói rằng sự thịnh vượng và ổn định của Trung Quốc có lợi cho Mỹ. Và trên thực tế, Mỹ đã làm nhiều hơn bất kỳ nước nào khác để góp phần hiện đại hóa Trung Quốc. Họ đã kéo Trung Quốc vào nền kinh tế toàn cầu; tạo cho Trung Quốc khả năng tiếp cận vào các thị trường, vốn, và công nghệ; đào tạo các chuyên gia Trung Quốc trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và luật pháp quốc tế; ngăn chặn sự tái quân sự hóa hoàn toàn của Nhật Bản; duy trì hòa bình trên Bán đảo Triều Tiên; và giúp tránh một cuộc chiến tranh liên quan đến Đài Loan.

Nhưng các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc quan tâm hơn tới các chính sách và cách hành xử mà họ xem là ít thiện chí. Quân đội Mỹ được huy động khắp xung quanh vùng ngoại biên của Trung Quốc, và Mỹ duy trì một mạng lưới rộng rãi gồm các quan hệ quốc phòng với các nước láng giềng của Trung Quốc. Washington tiếp tục phá hỏng mọi nỗ lực của Bắc Kinh giành quyền kiểm soát Đài Loan. Mỹ liên tiếp gây sức ép với Trung Quốc về các chính sách kinh tế và duy trì một loạt các chương trình chính phủ và tư nhân nhằm tìm cách ảnh hưởng tới xã hội dân sự và chính trị tại Trung Quốc.

Bắc Kinh nhìn sự mâu thuẫn trong các hành động này của Mỹ theo ba góc độ. Đầu tiên, các chuyên gia phân tích người Trung Quốc cho rằng nước họ được kế thừa từ một truyền thống chiến lược phương Đông, ruộng đất, mang tính hòa bình, phòng thủ, không bành trướng, và có đạo đức. Ngược lại họ thấy nền văn hóa chiến lược phương Tây - đặt biệt là của Mỹ - mang tính quân phiệt, hiếu chiến, bành trướng và ích kỷ.

Thứ hai, dù Trung Quốc gắn với chủ nghĩa tư bản nhà nước chặt chẽ, nhưng cách nước này nhìn Mỹ vẫn được định hình bởi các tư tưởng chính trị Mác, theo đó các nước tư bản tìm cách khai thác phần còn lại của thế giới. Trung Quốc cho rằng các nước phương Tây phản đối cuộc cạnh tranh của Trung Quốc giành tài nguyên và các thị trường giá trị gia tăng cao. Và dù Trung Quốc đạt thặng dư thương mại với Mỹ đồng thời đang nắm một khoản lớn nợ của Mỹ, nhưng các chuyên gia phân tích chính trị hàng đầu của Trung Quốc vẫn tin rằng người Mỹ nhận được phần hơn bằng việc sử dụng nhân công giá rẻ của Trung Quốc và sống thoải mái ngoài khả năng của họ.

Thứ ba, các học thuyết của Mỹ về quan hệ quốc tế đã trở nên nổi tiếng trong giới phân tích chính trị trẻ ở Trung Quốc, nhiều người trong số này đã được đào tạo tới các cấp độ cao ở Mỹ. Hầu hết bộ máy có ảnh hưởng trong học thuyết quan hệ quốc tế tại Trung Quốc hiện giờ theo cái được gọi là chủ nghĩa thực dụng hiếu chiến, cho rằng một quốc gia sẽ cố gắng kiểm soát môi trường an ninh của mình tới hết mức mà các năng lực của mình cho phép. Theo học thuyết này, Mỹ có thể không hài lòng với bài học về một Trung Quốc hùng mạnh và từ đó tìm cách làm cho chính quyền ở đây yếu đi và thân Mỹ hơn. Các chuyên gia Trung Quốc thấy có bằng chứng về ý định này trong những lời kêu gọi dân chủ của Washington và việc Mỹ ủng hộ cái mà Trung Quốc cho là các phong trào ly khai tại Đài Loan, Tây Tạng và Tân Cương.

Dù họ nhìn Mỹ ban đầu thông qua một thấu kính văn hóa, Mác, hay thực dụng, hầu hết các chiến lược gia Trung Quốc thấy rằng một quốc gia mạnh như Mỹ sẽ sử dụng vũ lực để bảo vệ và tăng cường các lợi thế của mình và sẽ coi các nỗ lực của các nước khác nhằm bảo vệ lợi ích của họ là các mối đe dọa cho an ninh quốc gia mình. Quan niệm này dẫn tới một kết luận tiêu cực: khi Trung Quốc nổi lên, Mỹ sẽ chống lại. Mỹ sử dụng các từ ngữ mềm mỏng; che giấu các hành động của mình dưới chiêu bài tìm kiếm hòa bình, nhân quyền, và một sân chơi; và đôi khi tặng cho Trung Quốc những hỗ trợ thực sự. Nhưng Mỹ hai mặt. Họ có ý định duy trì bá chủ toàn cầu và không để Trung Quốc mạnh hơn tới mức có thể thách thức vị trí này của họ.

Trong bài trả lời phỏng vấn tạp chí Liaowang của nhà nước Trung Quốc năm 2011, Phó Tổng giám đốc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Trung Quốc chuyên nghiên cứu về Mỹ, ông Ni Feng đã nói tóm gọn về quan điểm này. Ông nói: "Một mặt, Mỹ nhận ra rằng họ cần sự giúp đỡ của Trung Quốc trong nhiều vấn đề khu vực và toàn cầu. Mặt khác, Mỹ lo ngại rằng một Trung Quốc hùng mạnh hơn và sử dụng nhiều cách thức khác nhau để ngăn cản sự phát triển của Mỹ và tái tạo Trung Quốc với các giá trị Mỹ".

Một nhóm nhỏ các chuyên gia phân tích trẻ Trung Quốc từng nghiên cứu sâu về Mỹ cho rằng các lợi ích của Mỹ và Trung Quốc không hoàn toàn xung khắc. Theo họ, hai nước này xa nhau đủ để các lợi ích an ninh cốt lõi của họ không xung đột. Họ có thể cùng có lợi từ thương mại và các lợi ích chung khác.

Nhưng những người có quan điểm như vậy không nhiều trong số các chiến lược gia ở phía bên kia, hầu hết là nhân sự trong các cơ quan an ninh và quân đội, những người có quan điểm không rõ ràng về chính sách của Mỹ và có những ý tưởng đối đầu hơn về việc Trung Quốc nên đáp trả thế nào. Họ cho rằng Trung Quốc phải dũng cảm đương đầu với Mỹ về quân sự và họ sẽ chiến thắng trong một cuộc xung đột nếu xảy ra, bằng cách vượt trội Mỹ về công nghệ quân sự và giành lợi thế của cái mà họ tin là nhuệ khí cao hơn trong lòng các lực lượng vũ trang. Cách nhìn của họ thường được giấu kín để tránh khiến các đối thủ và cả bạn hữu của Trung Quốc khiếp sợ.

Châu Giang theo Viet-Studies.info

Còn tiếp