
Hai làng nghề làm ngói âm dương Lũng Rì, đan nón chúp xà Hoàng Diệu không chỉ góp phần tạo sinh kế bền vững cho hàng chục hộ dân mà còn tiếp sức bảo tồn di sản văn hoá của người Nùng An. Đây là nỗ lực trong việc bảo tồn văn hóa truyền thống gắn với phát triển du lịch cộng đồng.
Làng ngói Lũng Rì: Giữ lửa nghề từ những viên ngói âm dương
Giữa thung lũng Lũng Rì, tiếng đập đất, tiếng quét khuôn, tiếng lò nung đỏ lửa vẫn vang lên đều đặn như nhịp sống của một làng nghề không chịu bị lãng quên. Nghề làm ngói đất nung ở đây đã tồn tại qua nhiều thế hệ, trở thành “bản sắc nghề” của người Nùng An.


Để làm ra một viên ngói âm dương hoàn chỉnh, người thợ phải trải qua hàng chục công đoạn hoàn toàn thủ công: chọn đất tốt, ủ đất 5–6 ngày, sàng lọc tạp chất, cắt đất thành lát mỏng rồi miết từng lớp đất vào khuôn gỗ. Những phôi ngói sau đó được phơi trong bóng râm hàng tháng trời trước khi đưa vào lò nung có sức chứa lên tới hàng chục nghìn viên.


Ông Lương Văn Né, người có hơn 30 năm gắn bó với lò ngói, chia sẻ: “Chọn đất là chọn tính mạng của viên ngói. Không kỹ, gặp mưa nắng sẽ hỏng. Cái nghề này đòi hỏi sự kiên nhẫn hơn sức lực”.
Hiện Lũng Rì có 23 trong tổng số 80 hộ còn duy trì nghề. Thu nhập từ làm ngói dao động 25–40 triệu đồng/năm/hộ, trở thành nguồn sống ổn định cho người dân trong những mùa nông nhàn.


Không chỉ làm ra vật liệu xây dựng, người thợ Lũng Rì đang góp phần bảo tồn kiến trúc truyền thống, giữ lại những nếp nhà mái âm dương đặc trưng trong văn hóa bản địa.

Những năm gần đây, chính quyền các cấp ở Cao Bằng đã có nhiều chương trình hỗ trợ làng nghề, kết nối tiêu thụ, đưa sản phẩm ngói âm dương vào các gian trưng bày OCOP cũng như tour trải nghiệm nghề thủ công. Đây là hướng đi quan trọng để làng Lũng Rì tiếp tục phát triển theo hướng bền vững, gắn bảo tồn với kinh tế du lịch.
Làng nón Hoàng Diệu: Dáng nón – dáng người Nùng An
Cách Lũng Rì vài cây số là xóm Hoàng Diệu – nơi nghề làm nón chúp xà có niên đại hàng trăm năm vẫn được gìn giữ qua từng thế hệ. Xóm có 113 hộ thì 39 hộ còn duy trì nghề đan nón, coi đây là nguồn thu quan trọng bên cạnh chăn nuôi và trồng trọt.


Nón chúp xà là loại nón đặc trưng của người Nùng An, làm hoàn toàn từ vật liệu tự nhiên: mạy thàn, mạy mè, tre giang và lá chuối khô. Khung nón được chẻ từ những thanh tre mềm, miết mịn để tránh đứt tay người đan. Phần chóp nón – điểm nhấn tạo nên “dáng” chúp xà – được tạo hình cẩn thận, yêu cầu sự đều tay và mắt nghề tinh tường của người thợ.


Chị Lê Thị Điếp, người theo nghề mấy chục năm, cho biết: “Một người thợ lành nghề mỗi ngày chỉ làm được 2–3 chiếc nón. Tưởng đơn giản nhưng mỗi đường đan đều có bí quyết, đều là thứ mẹ truyền – con học”.

Nhờ nghề làm nón, đời sống của nhiều hộ dân Hoàng Diệu được cải thiện đáng kể. Một số hộ đã mạnh dạn tham gia các hội chợ, chương trình quảng bá sản phẩm địa phương; nhiều chiếc nón chúp xà được du khách tìm mua như một món quà mang đậm dấu ấn văn hóa Nùng An.
Chính quyền xã và huyện cũng đang hỗ trợ tổ hợp tác nghề nón trong đào tạo, truy xuất nguồn gốc nguyên liệu, xây dựng nhãn hiệu tập thể để mở rộng thị trường.
Song, nghề cũng đối diện với thách thức: lao động trẻ rời quê tìm việc, nguồn nguyên liệu tự nhiên suy giảm và thị trường tiêu thụ chưa ổn định. Những nỗ lực bảo tồn vì vậy càng có ý nghĩa, để chiếc nón chúp xà không chỉ là vật dụng che mưa nắng mà còn là biểu tượng của bản sắc tộc người.
Từ những bàn tay tỉ mỉ của người Nùng An, hai làng nghề trăm năm ở xã Tự Do vẫn đang âm thầm góp phần giữ gìn văn hóa truyền thống và tạo nên sinh kế bền vững cho cộng đồng. Trong “dòng chảy” đổi mới của Cao Bằng, những giá trị ấy càng trở nên đáng quý và cần được tiếp sức để tiếp tục lan tỏa.


