Hai làng nghề làm ngói âm dương Lũng Rì, đan nón chúp xà Hoàng Diệu không chỉ góp phần tạo sinh kế bền vững cho hàng chục hộ dân mà còn tiếp sức bảo tồn di sản văn hoá của người Nùng An. Đây là nỗ lực trong việc bảo tồn văn hóa truyền thống gắn với phát triển du lịch cộng đồng.

Làng ngói Lũng Rì: Giữ lửa nghề từ những viên ngói âm dương

Giữa thung lũng Lũng Rì, tiếng đập đất, tiếng quét khuôn, tiếng lò nung đỏ lửa vẫn vang lên đều đặn như nhịp sống của một làng nghề không chịu bị lãng quên. Nghề làm ngói đất nung ở đây đã tồn tại qua nhiều thế hệ, trở thành “bản sắc nghề” của người Nùng An.

W-Xã có 2 làng nghề trăm năm ở Cao Bằng 1.jpg
Nghề làm ngói đất nung (ngói âm dương) bằng phương pháp thủ công từ đất sét đã có từ nhiều đời nay tại xóm Lũng Rì. Trước hết phải chọn, ủ đất, giúp đất đạt được độ dẻo và kết dính tối ưu.
W-Xã có 2 làng nghề trăm năm ở Cao Bằng 2.jpg
Đất sau khi ủ sẽ được lấy lên để sàng lọc kỹ lưỡng. Anh Mạc Văn Thanh đang khéo léo dùng dụng cụ căng dây để xẻ từng lớp đất đặc, loại bỏ tạp chất như sỏi, đá.

Để làm ra một viên ngói âm dương hoàn chỉnh, người thợ phải trải qua hàng chục công đoạn hoàn toàn thủ công: chọn đất tốt, ủ đất 5–6 ngày, sàng lọc tạp chất, cắt đất thành lát mỏng rồi miết từng lớp đất vào khuôn gỗ. Những phôi ngói sau đó được phơi trong bóng râm hàng tháng trời trước khi đưa vào lò nung có sức chứa lên tới hàng chục nghìn viên.

W-Xã có 2 làng nghề trăm năm ở Cao Bằng 3.jpg
Sau khi đã lọc sạch, đất được chất thành khối và phủ ni lông kín để đảm bảo giữ được độ ẩm cần thiết trước khi chuyển sang công đoạn tạo hình. Tiếp đó, người thợ sẽ dùng dụng cụ chuyên dụng cắt thành từng lát đất có bề dày khoảng 1cm.
W-Xã có 2 làng nghề trăm năm ở Cao Bằng 4.jpg
Những lát đất mỏng được cuốn vào một chiếc khuôn gỗ hình trụ, khéo léo miết quanh thành khuôn cho đều đặn, có thể bôi một chút nước, cắt bỏ những phần đất thừa, mỗi khuôn như vậy sẽ tạo nên 4 phôi ngói.

Ông Lương Văn Né, người có hơn 30 năm gắn bó với lò ngói, chia sẻ: “Chọn đất là chọn tính mạng của viên ngói. Không kỹ, gặp mưa nắng sẽ hỏng. Cái nghề này đòi hỏi sự kiên nhẫn hơn sức lực”.

Hiện Lũng Rì có 23 trong tổng số 80 hộ còn duy trì nghề. Thu nhập từ làm ngói dao động 25–40 triệu đồng/năm/hộ, trở thành nguồn sống ổn định cho người dân trong những mùa nông nhàn. 

W-Xã có 2 làng nghề trăm năm ở Cao Bằng 5.jpg
Anh Lâm Văn Bích với hơn 30 năm kinh nghiệm làm nghề đang khéo léo tách các khối đất thành 4 phôi ngói sau khi đã được phơi trong bóng râm hơn 1 tháng.
W-Xã có 2 làng nghề trăm năm ở Cao Bằng 6.jpg
Công đoạn cuối cùng là xếp ngói vào lò nung, mỗi lò chứa khoảng 16.000 - 20.000 viên ngói.

Không chỉ làm ra vật liệu xây dựng, người thợ Lũng Rì đang góp phần bảo tồn kiến trúc truyền thống, giữ lại những nếp nhà mái âm dương đặc trưng trong văn hóa bản địa.

W-Xã có 2 làng nghề trăm năm ở Cao Bằng 7.jpg
Ngói âm dương mát vào mùa hè, ấm về mùa đông. Ngói âm dương Lũng Rì nổi tiếng với chất lượng tốt, bền đẹp và có khả năng chống chọi tốt với thời gian.

Những năm gần đây, chính quyền các cấp ở Cao Bằng đã có nhiều chương trình hỗ trợ làng nghề, kết nối tiêu thụ, đưa sản phẩm ngói âm dương vào các gian trưng bày OCOP cũng như tour trải nghiệm nghề thủ công. Đây là hướng đi quan trọng để làng Lũng Rì tiếp tục phát triển theo hướng bền vững, gắn bảo tồn với kinh tế du lịch.

Làng nón Hoàng Diệu: Dáng nón – dáng người Nùng An

Cách Lũng Rì vài cây số là xóm Hoàng Diệu – nơi nghề làm nón chúp xà có niên đại hàng trăm năm vẫn được gìn giữ qua từng thế hệ. Xóm có 113 hộ thì 39 hộ còn duy trì nghề đan nón, coi đây là nguồn thu quan trọng bên cạnh chăn nuôi và trồng trọt.

W-Xã có 2 làng nghề trăm năm ở Cao Bằng 8.jpg
Nón chúp xà được làm thủ công từ các vật liệu tự nhiên như mạy thàn, mạy mè (giống như tre, nứa, được trồng ở bìa rừng, trên núi hay ở những khoảng đất trống cằn cỗi), lá tre giang và lá chuối khô…
W-Xã có 2 làng nghề trăm năm ở Cao Bằng 9.jpg
Cây mạy mè sau khi được chẻ thành các sợi lạt sẽ phải qua công đoạn loại bỏ cạnh sắc để vừa tăng độ mềm mại vừa tránh đứt tay khi đan cũng như sử dụng.

Nón chúp xà là loại nón đặc trưng của người Nùng An, làm hoàn toàn từ vật liệu tự nhiên: mạy thàn, mạy mè, tre giang và lá chuối khô. Khung nón được chẻ từ những thanh tre mềm, miết mịn để tránh đứt tay người đan. Phần chóp nón – điểm nhấn tạo nên “dáng” chúp xà – được tạo hình cẩn thận, yêu cầu sự đều tay và mắt nghề tinh tường của người thợ.

W-Xã có 2 làng nghề trăm năm ở Cao Bằng 10.jpg
Ngoài khung nón làm từ cây mạy thàn, mạy mè thì phần chính che mưa, nắng thường được đan bằng lá tre giang hoặc lá chuối khô.
W-Xã có 2 làng nghề trăm năm ở Cao Bằng 11.jpg
Để đan khung nón nhanh và chuẩn kích thước, người dân thường dựa vào một chiếc khung mẫu. Phần chóp đặc trưng của nón chúp xà được tạo hình riêng biệt. Các nan được gắn kết sao cho phần đỉnh nhô cao đặc trưng.

Chị Lê Thị Điếp, người theo nghề mấy chục năm, cho biết: “Một người thợ lành nghề mỗi ngày chỉ làm được 2–3 chiếc nón. Tưởng đơn giản nhưng mỗi đường đan đều có bí quyết, đều là thứ mẹ truyền – con học”.

W-Xã có 2 làng nghề trăm năm ở Cao Bằng 12.jpg
Theo nghề đan nón từ mấy chục năm nay, chị Lê Thị Điếp cho biết, thông thường, một người thợ lành nghề có thể làm được 2-3 chiếc nón chúp xà/ngày (không tính giai đoạn chuẩn bị vật liệu).

Nhờ nghề làm nón, đời sống của nhiều hộ dân Hoàng Diệu được cải thiện đáng kể. Một số hộ đã mạnh dạn tham gia các hội chợ, chương trình quảng bá sản phẩm địa phương; nhiều chiếc nón chúp xà được du khách tìm mua như một món quà mang đậm dấu ấn văn hóa Nùng An. 

Chính quyền xã và huyện cũng đang hỗ trợ tổ hợp tác nghề nón trong đào tạo, truy xuất nguồn gốc nguyên liệu, xây dựng nhãn hiệu tập thể để mở rộng thị trường.

Song, nghề cũng đối diện với thách thức: lao động trẻ rời quê tìm việc, nguồn nguyên liệu tự nhiên suy giảm và thị trường tiêu thụ chưa ổn định. Những nỗ lực bảo tồn vì vậy càng có ý nghĩa, để chiếc nón chúp xà không chỉ là vật dụng che mưa nắng mà còn là biểu tượng của bản sắc tộc người.

Từ những bàn tay tỉ mỉ của người Nùng An, hai làng nghề trăm năm ở xã Tự Do vẫn đang âm thầm góp phần giữ gìn văn hóa truyền thống và tạo nên sinh kế bền vững cho cộng đồng. Trong “dòng chảy” đổi mới của Cao Bằng, những giá trị ấy càng trở nên đáng quý và cần được tiếp sức để tiếp tục lan tỏa.