- Những ngày gần đây, dư luận cả nước đang rất quan tâm đến dự thảo Luật Giáo dục ĐH hiện đang được Quốc hội xem xét và dự kiến thông qua vào kỳ họp tới với mong muốn tạo ra được một sự đột phá trong chính sách trao quyền tự chủ cho các trường đại học. Theo dõi góp ý, nhiều đại biểu lo ngại việc dự án còn “né tránh” một số vấn đề cơ bản của giáo dục ĐH nước ta.

Phụ huynh chờ con thi trong kỳ thi ĐH, Ảnh: Lê Anh Dũng

Thực chất, đây cũng là ý kiến của một số diễn đàn và học giả trong những tháng vừa qua khi cho rằng: dự thảo luật này vẫn chung chung, chưa cụ thể hóa những nội dung nòng cốt liên quan đến quyền tự chủ của các trường; dự thảo vẫn thể hiện tư tưởng quản lý xin cho, chưa đổi mới sâu sắc tư duy quản lý. Và dự thảo cơ bản là lặp lại các văn bản quản lý được đề ra trong những năm qua.

Nếu dự thảo này được thông qua, hiện tượng “bình mới rượu cũ” có thể sẽ lại tiếp tục diễn ra trong thời gian tới và sẽ khó những đột phá trong quản lý giáo dục như yêu cầu đặt ra.

Sáu lần thay đổi tuyển sinh

Để góp một góc nhìn khác cho những tranh luận gần đây, tôi xin giới thiệu trong bài viết này quá trình đổi mới giáo dục ĐH diễn ra trong hơn ba thập kỷ vừa qua của Hàn Quốc.

Hai lý do chọn Hàn Quốc để liên hệ tới quá trình đổi mới giáo dục của Việt Nam. Thứ nhất, hiện nay Hàn Quốc là nước có những phát triển vượt bậc về phát triển khoa học công nghệ và trong đó không thể không kể đến những thành tựu to lớn trong giáo dục ĐH của Hàn Quốc. Thứ hai, mặc dù, Hàn Quốc và Việt Nam hiện nay là hai nước có nền kinh tế và hệ thống chính trị khác nhau, nhưng nếu nhìn vào chỉ số GDP trên đầu người và hệ thống chính trị của Hàn Quốc vào những năm đầu 1980 khi nước này bắt đầu đổi mới giáo dục ĐH thì có thể nhận thấy những nét tương đồng với Việt Nam hiện nay.

Đặc biệt, khi nghiên cứu quá trình đổi mới này của Hàn Quốc, có thể thấy rất rõ trong đó hình ảnh của công cuộc cải cách giáo dục đại học của Việt Nam trong hai thập kỷ gần đây.

Có một sự khác biệt lớn nữa giữa hai hệ thống giáo dục đó là trong số 419 trường ĐH, CĐ của Hàn Quốc tính đến năm 2005, thì chỉ có 20% sinh viên ĐH và 4% cao đẳng học tại các trường công lập 1, trong khi hiện nay, Việt Nam chỉ có 14.4 % sinh viên đại học và cao đẳng học tại các trường ngoài công lập 11. Từ năm 1990, Chính phủ Hàn Quốc đã chính thức chi ngân sách hỗ trợ các trường tư thục của Hàn Quốc.

Mặc dù có được thành tựu đáng ghi nhận như hiện nay, Hàn Quốc đã có nhiều thập kỷ hạn chế quyền tự chủ của các trường ĐH. Thực vậy, cho đến trước thời điểm đổi mới và giao quyền tự chủ toàn diện cho các trường ĐH của Hàn Quốc vào năm 1995, chính sách giáo dục ĐH của Hàn Quốc được cho là tập trung đến mức cực đoan. Bộ Giáo dục Hàn Quốc giữ quyền kiểm soát:

1. Việc thành lập các trường đại học.
2. Đặt ra các quy định về thời lượng chương trình, năm học, chỉ tiêu tuyển sinh, tiêu chuẩn thi cử, chuẩn hoàn thành khóa học, kiểm định chất lượng.
3. Việc bổ nhiệm, khen thưởng hiệu trưởng; đề ra các chuẩn chất lượng giáo viên.
4. Duyệt chỉ tiêu tuyển sinh, và quy định hình thức thi tuyển đầu vào ĐH.
5. Xác định chương trình khung, yêu cầu đăng ký tốt nghiệp để kiểm soát số lượng sinh viên.
6. Duyệt chi ngân sách, xác định chuẩn cơ sở vật chất, thư viện, v.v.
7. Quy định trình tự báo cáo của các trường về tài chính, nhân sự, sinh viên lên Bộ Giáo dục.

Và thực tế là chính phủ Hàn Quốc cũng đã loay hoay trong hai thập kỷ 70-80 của thế kỷ trước để tìm ra mô hình cho đổi mới giáo dục ĐH. Cụ thể là, trong thời gian này, Hàn Quốc đã có ít nhất là 6 lần thay đổi quy định tuyển sinh ĐH: lúc thì Bộ Giáo dục quy định đề chung, lúc thì trường được phép ra đề, lúc thì kết hợp cả hai hình thức tùy theo từng đối tượng.

Đến năm 1995, Hàn Quốc đã chính thức cải cách hoàn toàn cơ chế quản lý xin cho và tập quyền để dứt khoát trao quyền tự chủ cho các trường với những nội dung cơ bản như sau:

1. Đa dạng hóa và chuyên sâu hóa hệ thống giáo dục ĐH
2. Đa dạng hóa các tiêu chí cho phép thành lập các trường ĐH tư thục.
3. Trao quyền tự chủ cho các trường quyết định chỉ tiêu tuyển sinh và quản lý trường.
4. Tạo hệ thống hỗ trợ đặc biệt cho nghiên cứu khoa học.
5. Gắn kết chặt chẽ giữa đánh giá chất lượng của trường ĐHvới hỗ trợ tài chính từ Chính phủ.

Những dấu mốc đoạn tuyệt cách quản cũ

Để có được sự dứt khoát đoạn tuyệt với chính sách quản lý cũ, Hàn Quốc đã phải trải qua những dấu mốc cải tổ nào và làm cách nào để Chính phủ Hàn Quốc giám sát chất lượng giáo dục của các trường khi giao toàn quyền tự chủ cho các trường đại học. Đây là điều mà các nhà quản lý cũng như nhiều độc giả quan tâm.

Thứ nhất, từ năm 1982, Hiệp hội các trường đại học Hàn Quốc được thành lập (Korean Council for University Education – KCUE). Hiệp hội này nhằm thúc đẩy nghiên cứu, hợp tác giữa các trường, và đánh giá, kiểm định chất lượng. Cơ quan này đóng vai trò cầu nối giữa Bộ Giáo dục và các trường ĐH. Sau 10 năm thử nghiệm, năm 1992, Hiệp hội chính thức được Chính phủ và Bộ Giáo dục Hàn Quốc công nhận là cơ quan độc lập phi chính phủ, có vai trò chủ chốt trong việc đánh giá, kiểm định các chương trình giáo dục của các trường thành viên.

Thứ hai, sau hai thập kỷ loay hoay với đổi mới giáo dục, năm 1987, cùng mới quá trình dân chủ hóa nền chính trị Hàn Quốc, Bộ Giáo dục đã đề ra Kế hoạch Tự chủ hóa các trường ĐH (University Autonomization Plan).

Do đó, bản kế hoạch cải cách năm 1987 thực chất là tăng cường tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong quản lý của các trường; mở rộng sự tham gia của đội ngũ giáo viên trong quản lý của nhà trường; tăng cường chất lượng giáo dục thông qua mở rộng quyền của giáo viên; tăng cường quyền tự quyết của các trường; và bảo vệ và phát huy quyền tự chủ của các trường ĐH, CĐ.

Bản đề xuất này đã được hợp thức hóa bằng bản Đề xuất Cải cách của Hội đồng Tổng thống về Cải cách Giáo dục vào ngày 31/05/1995 (Presidential Commission on Educational Reform – PCER) và được chính thức luật hóa bằng Đạo Luật Giáo dục ĐH năm 1998.

Hai cơ chế nổi bật

Có hai cơ chế nổi bật trong cải cách giáo dục ĐH của Hàn Quốc nhằm đảm bảo trách nhiệm xã hội của các trường khi được giao toàn quyền tự chủ. Một là gắn đánh giá chất lương giáo dục (bằng một cơ quan kiểm định độc lập) với hỗ trợ tài chính từ chính phủ; hai là quy định rõ việc thành lập hội đồng trường và điều lệ trường nhằm giám sát hoạt động của các trường.

Qua phân tích quá trình đổi mới giáo dục ĐH của Hàn Quốc như trên, có thể rút ra một số điểm mấu chốt liên hệ tới quá trình đổi mới giáo dục đại học của Việt Nam hiện nay. Một là, quá trình đổi mới thực sự khởi nguồn vào năm 1982 (lúc đó GDP trên đầu người của Hàn Quốc là 3,012 USD so với 3,142 của Việt Nam năm 2010, IMF) 10 từ việc thành lập hiệp hội các trường ĐH.

Tuy vậy phải mất 10 năm, bằng sự mở đường của quá trình dân chủ hóa diễn ra từ năm 1987 đến năm 1992 tại Hàn Quốc, thì hiệp hội này mới chính thức được công nhận là cơ quan độc lập, giám sát và kiểm định chất lượng của hơn 200 trường thành viên.

Hai là, quá trình đổi mới chính sách xuất phát từ sự đổi mới sâu xa về tư duy: từ việc coi trường ĐH là cơ sở do nhà nước sinh ra, và cần chịu sự quản lý của nhà nước đến tư duy coi trường ĐH là một thực thể xã hội độc lập, có vai trò nuôi dưỡng sáng tạo khoa học và truyền bá kiến thức. Từ cơ chế xin cho, định hướng đến cơ chế khuyến khích sáng tạo tri thức và phát huy tính đa dạng vốn có của bất kỳ một xã hội nào.

Cải cách giáo dục ĐH Việt Nam cần dựa trên những nền tảng sau: một đạo luật đủ mạnh để khẳng định quyền tự chủ của các trường ĐH; một hệ thống các quy định điều tiết mối quan hệ giữa chính phủ và hệ thống giáo dục ĐH, sao cho các trường không bị hạn chế quyền tự chủ của mình; minh bạch hóa các quy định về quyền tự chủ và chịu trách nhiệm xã hội, sao cho các cơ quan quản lý, hội đồng trường và hiệu trưởng hiểu rõ quyền và trách nhiệm cụ thể của mình; tăng cường năng lực quản lý của các trường; và xây dựng niềm tin đối với quá trình tự chủ của các trường ĐH.

Đặng Văn Huấn (NCS tại trường Đại học Portland State, Hoa Kỳ)