Sáng 12/3, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức hội nghị phản biện xã hội đối với dự án Luật Di sản văn hóa sửa đổi.
Khuyến khích làm sống lại và phát huy các giá trị văn hóa
GS.TS Trần Ngọc Đường, Hội đồng Dân chủ - Pháp luật nêu thực tế ở nhiều quốc gia có nền công nghiệp văn hóa phát triển đã làm rất tốt việc khai thác, chuyển hóa giá trị di sản thành sản phẩm thương mại mang đậm bản sắc dân tộc. Điều này không chỉ phục vụ quyền được hưởng thụ của người dân trong nước mà còn đưa thương hiệu quốc gia ra thế giới.
Vì vậy, ông cho rằng, trong điều kiện hiện nay, khi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển như vũ bão, giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng, nước ta đang hướng tới phát triển nền công nghiệp văn hóa thì việc khuyến khích làm sống lại và phát huy các giá trị văn hóa của cha ông ta cần được quy định đầy đủ, rõ ràng, minh bạch trong dự thảo luật này.
Điều này để tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động sáng tạo trong việc phát huy các giá trị của di sản văn hóa.
GS Trần Ngọc Đường bày tỏ băn khoăn, hiện nay di sản phái sinh được tạo tác từ quá trình nghiên cứu và sáng tạo dựa trên di sản văn hóa thuộc về cộng đồng hay thuộc về người nghiên cứu và sáng tạo; nghiên cứu, sáng tạo với tỷ lệ bao nhiêu thì được đăng ký bản quyền.
Những vấn đề còn gây tranh cãi vì chưa có khung pháp lý để bảo vệ quyền lợi của những người nghiên cứu, sáng tạo phát huy giá trị của di sản văn hóa. Vì vậy, Luật Di sản văn hóa lần này phải có những quy định rõ ràng về vấn đề này.
Ngoài ra, ông cũng nêu thực tế hiện nay, việc bắt tay giữa di sản văn hóa và công nghệ đang thúc đẩy sự hình thành các khái niệm mới về di sản số, di sản phái sinh… Tuy nhiên nội dung này cũng chưa được luật hóa để hình thành chính sách pháp lý phù hợp, khuyến khích phát triển các sản phẩm số dựa trên di sản.
Do đó, những người nghiên cứu, sáng tạo trong lĩnh vực này cho rằng nếu nghiên cứu đưa di sản số trở thành một khái niệm chính thức trong Luật Di sản văn hóa và có các quy định về chính sách đầu tư, chính sách về bản quyền… sẽ thúc đẩy người làm công nghệ có sản phẩm số hóa mang tính ứng dụng cao trong đời sống để di sản văn hóa thật sự phát huy giá trị.
GS Trần Ngọc Đường cũng lưu ý, dự thảo luật nặng về quản lý và bảo vệ di sản văn hóa. Còn sự thụ hưởng, trách nhiệm của công dân và cộng đồng dân cư đối với các giá trị văn hóa dường như chưa được chú ý đúng mức.
Ông phân tích thêm, quản lý và bảo vệ là để được thụ hưởng và gắn với trách nhiệm, không thể gộp chung quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cộng đồng và cá nhân đối với di sản văn hóa vào chung một điều.
Mỗi chủ thể có quyền, nhiệm vụ và trách nhiệm riêng của mình nhất là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của chủ sở hữu di sản văn hóa hoàn toàn khác với người không phải là chủ sở hữu.
Vì vậy, theo ông Đường, dự luật cần phải quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các chủ thể không phải là chủ sở hữu di sản văn hóa.
Nảy sinh những hiện tượng tự ý tu sửa di tích, tiếp nhận hiện vật đồ thờ
Ông Trương Minh Tiến, Chủ tịch Hiệp hội UNESCO TP Hà Nội quan tâm đến vấn đề sở hữu di sản văn hóa, sở hữu toàn dân, sở hữu chung và riêng.
Theo ông Tiến, di sản văn hóa cũng là một tài sản, được xác lập quyền sở hữu có người đại diện quyền sở hữu. Riêng hình thức sở hữu toàn dân về di sản văn hóa, nhất là về di tích đình, chùa, miếu… là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân ở các làng, thôn hiện chưa được xác định rõ người đại diện.
Vì vậy, ông Tiến cho rằng, sửa đổi luật lần này cần phải quy định rõ người đại diện sở hữu. Trên thực tế, đang có sự lúng túng ở cơ sở về quản lý, bảo vệ, tu bổ, phát huy giá trị ở nhiều địa phương, nảy sinh những hiện tượng tự ý tu sửa di tích, tiếp nhận hiện vật đồ thờ.
Ngoài ra, Chủ tịch Hiệp hội UNESCO TP Hà Nội cũng kiến nghị các ngành chức năng cần có biện pháp quản lý chặt chẽ hơn việc xác định quyền sở hữu, mua bán cổ vật. Làm tốt được việc này thì sẽ góp phần giảm tình trạng mất cắp hiện vật và cổ vật ở các di tích.
TS. Nguyễn Xuân Năng, nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam cũng kiến nghị nên phân định cấp độ khác nhau giữa di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia để có ứng xử phù hợp.
Ông Năng thông tin, hiện mới có 300 hiện vật là bảo vật quốc gia. Chính vì vậy phải coi bảo vật quốc gia là tài sản đặc thù, có giá trị đặc biệt và thuộc loại hiện vật quý hiếm, không cho phép kinh doanh cả trong và ngoài nước.
Còn với cổ vật, cấm kinh doanh ở nước ngoài nhưng nên cho phép mua bán, kinh doanh trong nước. Bởi vì, hiện nay những phiên đấu giá cổ vật diễn ra rất nhiều ở các địa phương, nếu quy định cấm kinh doanh tất cả thì chưa hợp lý.
Ông Năng cũng đề xuất, với di vật không phải là những hiện vật thuộc dạng quý hiếm hay có giá trị tiêu biểu hay đặc biệt tiêu biểu như cổ vật và bảo vật quốc gia có thể cho phép mua bán cả trong và ngoài nước. Như vậy các bảo tàng mới có cơ hội sưu tầm được nhiều hiện vật phục vụ trưng bày giới thiệu cho công chúng.