Công ty ô tô VinFast vừa công bố kết quả kinh doanh nửa đầu năm 2020 với khoản lỗ ròng lên tới 6.591 tỷ đồng, tăng gấp 4 lần so với cùng kỳ năm 2019. Điều này cho thấy đầu tư làm ô tô thương hiệu Việt là “cuộc chơi” vô cùng tốn kém.
Từ khi ra mắt đến nay, các mẫu xe của VinFast đều bán lỗ. Mức lỗ hiện có thể lên tới 500 triệu đồng cho các mẫu xe Lux A2.0, Lux SA 2.0. Trong khi đó, VinFast vẫn liên tục đầu tư lớn cho sản xuất. Nhà máy ô tô VinFast có mức đầu tư lên tới 28.116 tỷ đồng. VinFast cũng mở văn phòng nghiên cứu phát triển các mẫu xe, mua trung tâm thử nghiệm tại Úc và đầu tư sản xuất ô tô điện để thâm nhập thị trường Mỹ.
VinFast lỗ 6.591 tỷ đồng trong nửa đầu năm 2020 |
Theo chuyên gia ô tô Nguyễn Minh Đồng, VinFast đầu tư lớn cho sản xuất ô tô, thương hiệu còn mới lạ, sản phẩm vừa ra mắt lại gặp ngay đại dịch Covid-19 thì khó khăn chồng khó khăn, thua lỗ là chuyện đương nhiên, ai cũng có thể hình dung ra. Chắc chắn, VinFast còn tiếp tục chịu lỗ lớn trong các năm tới và đó là điều ông chủ hãng xe này cũng đã lường trước. Làm ô tô không phải là “cuộc dạo chơi”, ông Đồng nói.
Trước VinFast, tại Việt Nam đã có DN đầu tư lớn cho sản xuất ô tô thương hiệu Việt và kết cục đã bị phá sản.
Ông Bùi Ngọc Huyên, Tổng giám đốc Công ty CP Ô tô Xuân Kiên (Vinaxuki) đến giờ vẫn ân hận, cho rằng đã dại dột khi đầu tư lớn để sản xuất ô tô con. Nếu chỉ nhập linh kiện về lắp ráp xe tải và bán thì hàng năm đều có lãi, sau mấy năm đã thu hồi vốn. Song, vì khao khát muốn có ô tô thương hiệu Việt, ông đã dốc sức đầu tư mà hầu như không được hưởng ưu đãi gì. Trong khi, vay vốn ngân hàng thởi điểm 2010-2011 lên tới 17-22%/năm nên rủi ro cao.
Dù đã sản xuất được khung xe hoàn chỉnh, với gần 400 chi tiết cùng một số linh kiện đạt tỷ lệ nội địa hóa khoảng 40%, cao nhất lúc bấy giờ, song kết quả lại thảm hại. Ông Huyên phải bán cả nhà ở để có tiền trả lãi ngân hàng, phải bán sắt vụn lấy tiền trả lương người lao động...
Đến nay, nhà máy ô tô với vốn đầu tư gần 2.000 tỷ đồng đã trở thành đống sắt vụn, nợ chồng chất, sản nghiệp mất sạch.
Không phải “cuộc dạo chơi”
Theo ông Huyên, làm ô tô thương hiệu Việt rất khó khăn nên nhiều doanh nghiệp không muốn đầu tư. Muốn tạo ra sản phẩm ô tô thương hiệu Việt, trước tiên phải có được thiết kế toàn xe. Để nội địa hóa thì có tới 94% công việc là tập trung vào sản xuất các loại phụ tùng.
Nhìn tổng thể thì một chiếc ô tô rất phức tạp, có đến trên 20.000 chi tiết khác nhau và sử dụng nhiều công nghệ về cơ khí và luyện kim hiện đại. Muốn nội địa hóa một chiếc ô tô tới 50%, cần đầu tư công nghệ để làm thân vỏ xe trước. Tiếp đến là cụm phụ tùng động cơ và hộp số,...
Ngay từ lúc xây dựng, phải đảm bảo công suất tối thiểu là 50.000 sản phẩm/năm. Vì vậy, đây là khoản chi phí rất lớn. Chỉ tính riêng tiền dành cho nghiên cứu phát triển sản phẩm, thuê chuyên gia, chế thử,... cũng chiếm đến 20- 30% tổng chi phí của dự án. Sau khi ra sản phẩm, còn phải thực hiện chiến lược marketing từ 1-3 năm mới bán được hàng.
Đầu tư ô tô không phải là “cuộc dạo chơi”. |
Trong khi đó, quy mô thị trường ô tô Việt Nam còn nhỏ so với các nước trong khu vực và thế giới, thương hiệu lại mới lạ. Nếu sản phẩm làm ra không có chất lượng tốt và giá cạnh tranh, rất khó thành công.
Tuy nhiên, mong ước về một ngành công nghiệp hùng mạnh, về những chiếc ô tô của người Việt chiếm lĩnh thị trường, có mặt trên mọi nẻo đường là khát vọng của không ít doanh nghiệp, theo ông Huyên.
Nếu Chính phủ có chiến lược, chính sách, quy hoạch phù hợp với thực tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thì sản xuất ô tô sẽ phát triển. Trong khu vực, chỉ nên học Thái Lan về phát triển công nghiệp hỗ trợ bởi nước này không có thương hiệu ô tô riêng. Muốn có thương hiệu ô tô riêng phải học Hàn Quốc. Nếu Chính phủ Hàn Quốc không có những chính sách khuyến khích phát triển ô tô thương hiệu Hàn hiệu quả, nếu người dân Hàn Quốc không sử dụng ô tô thương hiệu Hàn thì các doanh nghiệp như Hyundai hay Kia khó có sự phát triển như ngày nay, ông Huyên nói.
Với xe nhập được hưởng ưu đãi thuế 0% tràn vào ngày càng nhiều thì đầu tư sản xuất lắp ráp ô tô trong nước rất rủi ro. Chính phủ đã cam kết thúc đẩy ngành công nghiệp ô tô với những chính sách đột phá, nhưng tới nay vẫn chưa thấy. “Chúng tôi hy vọng từ 2020 những chính sách này sẽ được ban hành, có như vậy nhà đầu tư mới yên tâm và ngành công nghiệp ô tô có thể phát triển hơn nữa”, ông Lê Ngọc Đức, Tổng giám đốc TC Motor, kỳ vọng.
Thời gian qua, một số doanh nghiệp đã lên kế hoạch đầu tư lớn cho sản xuất ô tô, trong đó có ô tô thương hiệu Việt. Tuy nhiên, chờ mãi chính sách đột phá không thấy đâu, nên dự án đến nay vẫn “án binh bất động”. Nếu cứ làm thì rủi ro sẽ rất lớn.
VinFast cho hay khoản lỗ 6.591 tỷ đồng trong nửa đầu năm 2020 nằm trong kế hoạch của công ty. Các sản phẩm đang trong giai đoạn chiếm lĩnh thị trường và doanh nghiệp chấp nhận chi tiền để bù lỗ. Vingroup - công ty mẹ của VinFast - tiết lộ chấp nhận bù lỗ cho mảng công nghiệp trong khoảng 3-5 năm để có thị phần tốt.
Tuy nhiên, theo chuyên gia Nguyễn Minh Đồng, trên thực tế, không ít doanh nghiệp ô tô phải chịu lỗ từ 5-10 năm, thậm chí tại Malaysia có doanh nghiệp lỗ liên tục trong 20 năm. Vấn đề là sức chịu đựng của doanh nghiệp đến đâu và sự đối xử của Nhà nước với ngành công nghiệp ô tô như thế nào.
Trần Thủy