>> Lương không đủ sống, công chức tìm cách 'xoay'
Căn cứ Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng , kế thừa các quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc về cải cách tiền lương nêu tại Kết luận số 20-KL/TW ngày 28/01/2008 của Hội nghị Trung ương 6 khóa X và trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế của chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức nêu trên, đề xuất định hướng cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2012 – 2020 như sau:
>> Lương công chức tối đa có thể hơn 12 triệu đồng/tháng
>> Chi hơn 59.000 tỷ đồng cho cải cách lương
>> Bỏ lương ‘giả vờ’, trả xứng đáng cho người giỏi
>> Lương: Cải cách thật chứ đừng ‘gọt chân cho vừa giày’
>> Chi hơn 59.000 tỷ đồng cho cải cách lương
>> Bỏ lương ‘giả vờ’, trả xứng đáng cho người giỏi
>> Lương: Cải cách thật chứ đừng ‘gọt chân cho vừa giày’
I. BỐI CẢNH:
Trong điều kiện nước ta bước vào thời kỳ chiến lược mới (2011 – 2020) trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh…sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Kinh tế thế giới tuy có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, bất ổn; quá trình cấu trúc lại diễn ra mạnh mẽ ở các nước. Cạnh tranh kinh tế thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao,…giữa các nước ngày càng gay gắt.
Ở trong nước, những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới đã tạo cho đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước. Những năm tới là giai đoạn kinh tế nước ta phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng sau thời kỳ suy giảm, cấu trúc lại nền kinh tế để phát triển nhanh và bền vững; khắc phục những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại.
Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Nước ta đã vào khối có thu nhập trung bình (từ 1.000 USD đến dưới 10.000 USD) nhưng nước ta mới đang ở mức đầu tiên, nên vẫn còn nhiều khó khăn. Tình hình kinh tế vĩ mô của đất nước còn có những yếu kém như: Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp; các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý, lạm phát cao, sử dụng nguồn vốn kém hiệu quả, nợ công…
Theo số liệu của Bộ Tài chính công bố thì tổng dư nợ nước ngoài năm 2010 của Chính phủ và các khoản vay của doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh khoảng 32,5 tỷ USD, chiếm 42,2% so với GDP. Theo đó, căn cứ vào thời điểm đáo hạn thì từ nay đến năm 2015, mỗi năm chúng ta phải trả nợ gốc và lãi cho nước ngoài gần 1,5 tỷ USD và mức trả nợ cao nhất là 2,4 tỷ USD vào năm 2020…
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng vào tháng 01/2011 đã tổng kết đánh giá toàn diện tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010, tổng kết Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010) và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở đó, Đại hội XI của Đảng đã quyết định bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991; xác định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2011-2020); đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm (2011- 2015), trong đó đã đề ra một trong những nhiệm vụ trọng tâm cần lãnh đạo, chỉ đạo là “Đổi mới quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức, khắc phục tình trạng bất hợp lý và tác động tiêu cực của quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập hiện nay”.
II. ĐỊNH HƯỚNG CHUNG:
1. Tập trung thực hiện kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội giai đoạn 2012 – 2020 đã được Đại hội XI của Đảng thông qua.
2. Tiền lương phải được coi là giá cả sức lao động, được hình thành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
3. Kiên quyết khắc phục những bất hợp lý về tiền lương và trợ cấp xã hội phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước; gắn cải cách tiền lương với sắp xếp, kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của hệ thống chính trị.
4. Cải cách chính sách tiền lương, thu nhập, chính sách nhà ở bảo đảm cho cán bộ, công chức sống được bằng tiền lương ở mức trung bình khá trong xã hội để họ gắn bó với bộ máy nhà nước và làm tròn trách nhiệm công vụ của mình, góp phần phòng, chống tham nhũng. Tiền lương của cán bộ, công chức phải hợp lý trong mối tương quan với mặt bằng tiền lương khu vực thị trường để thu hút và giữ nhân tài làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, theo đó cần xác định hệ số chênh lệch cao hơn giữa tiền lương của cán bộ, công chức so với tiền lương của lao động khu vực thị trường.
5. Cải cách chính sách tiền lương phải trên cơ sở hình thành cơ chế riêng đối với từng khu vực (hành chính, lực lượng vũ trang, sự nghiệp, doanh nghiệp, bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công) và thay đổi kết cấu mục lục ngân sách ngân sách nhà nước cho phù hợp, cụ thể như sau:
a) Đối với khu vực hành chính (cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội):
- Tiền lương của cán bộ, công chức do ngân sách nhà nước bảo đảm và tính trong chi quản lý hành chính nhà nước.
- Tập trung đột phá nâng mức lương tối thiểu (thấp nhất) để cán bộ, công chức đủ sống bằng tiền lương.
- Mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa cho phù hợp, trên cơ sở đó ban hành hệ thống bảng lương, ngạch, bậc mới bảo đảm tính hợp lý, phù hợp với thứ bậc trong hệ thống chính trị. Sắp xếp lại các chế độ phụ cấp lương trên cơ sở xem xét đưa một số chế độ phụ cấp lương hiện hành vào mức lương theo quan hệ tiền lương mới cho phù hợp.
- Thực hiện quản lý cán bộ, công chức theo quy định của Luật Cán bộ, công chức trên cơ sở xác định rõ vị trí việc làm, biên chế của từng cơ quan, tổ chức, tiến hành đánh giá thực trạng cán bộ, công chức để sắp xếp, bố trí lại cán bộ, công chức cho phù hợp; thực hiện khoán quỹ tiền lương và kinh phí quản lý hành chính đến đơn vị trực tiếp sử dụng cán bộ, công chức.
b) Đối với lực lượng vũ trang:
- Tiền lương của lực lượng vũ trang do ngân sách bảo đảm và tính trong chi ngân sách nhà nước cho quốc phòng, an ninh.
- Giữ tương quan tiền lương giữa lực lượng vũ trang so với công chức hành chính như hiện nay.
c) Đối với khu vực sự nghiệp dịch vụ công:
- Tiền lương của công chức, viên chức trong đơn vị sự nghiệp công do quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công bảo đảm và được tính trong chi ngân sách nhà nước cho ngành (giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, văn hóa, thể thao, du lịch, kinh tế,....).
- Đẩy mạnh thực hiện đổi mới phương thức hoạt động, cơ chế tài chính và tiền lương đối với khu vực sự nghiệp công lập theo hướng đơn vị sự nghiệp được thu phí (giá) dịch vụ tính đủ tiền lương và từng bước tính đủ các chi phí khác; đơn vị sự nghiệp thực hiện hạch toán thu – chi (không vì mục đích lợi nhuận), trên cơ sở đó nâng cao chất lượng, phát triển hoạt động để vừa phục vụ tốt hơn nhu cầu của xã hội, vừa tự cân đối nguồn thu (nguồn từ ngân sách nhà nước thanh toán cho các đối tượng chính sách và cho các dịch vụ không có thu mà Nhà nước phải bảo đảm; nguồn do đối tượng thụ hưởng chi trả).
- Nhà nước chỉ quy định bảng lương áp dụng chung đối với viên chức ở tất cả các ngành sự nghiệp có mức lương tương đương với bảng lương công chức chuyên môn, nghiệp vụ để làm căn cứ cấp hoặc hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước, tính đóng và hưởng bảo hiểm xã hội, đóng bảo hiểm y tế, trả lương ngày nghỉ theo chế độ. Tiền lương thực trả gắn với vị trí việc làm, chức danh nghề nghiệp theo quy định của Luật Viên chức và phụ thuộc vào nguồn thu của đơn vị.
d) Đối với khu vực sản xuất kinh doanh:
Tiền lương đối với người lao động trong khu vực doanh nghiệp được thực hiện theo cơ chế riêng. Việc xây dựng mức lương tối thiểu của khu vực doanh nghiệp phải theo nguyên tắc bảo đảm đời sống tối thiểu của người lao động, có quy định chặt chẽ để doanh nghiệp trả lương cho người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu, gắn với việc đóng và hưởng bảo hiểm xã hội theo quy định.
đ) Đối với lương hưu và trợ cấp ưu đãi người có công:
Thực hiện điều chỉnh lương hưu và trợ cấp ưu đãi người có công độc lập với tiền lương của người tại chức và thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và đãi ngộ người có công.
Lương hưu của người nghỉ hưu từ ngày 01/01/1995 do quỹ bảo hiểm xã hội bảo đảm.
Lương hưu đối với người nghỉ hưu trước ngày 01/01/1995 và trợ cấp ưu đãi người có công do ngân sách nhà nước bảo đảm và tính trong chi ngân sách nhà nước cho an sinh và phúc lợi xã hội.
III. ĐỊNH HƯỚNG CẢI CÁCH TIỀN LƯƠNG ĐỐI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRONG CƠ QUAN ĐẢNG, NHÀ NƯỚC, TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI:
1.Về mức lương tối thiểu (thấp nhất):
Cán bộ, công chức là một bộ phận của thị trường lao động. Mặt khác, lao động của cán bộ, công chức có những yếu tố đòi hỏi tiền lương phải cao hơn mặt bằng chung trong xã hội như cán bộ, công chức phải chủ yếu sống bằng tiền lương, trình độ đào tạo của cán bộ, công chức cao hơn so với đội ngũ lao động nói chung trong xã hội và đòi hỏi trách nhiệm cao trong hoạt động công vụ, đồng thời cán bộ, công chức bị điều chỉnh bởi nhiều quy định không được làm để có thu nhập thêm như các loại lao động khác trong xã hội.
Cán bộ, công chức làm việc trong cơ quan Đảng, Nhà nước là cơ quan quyền lực chi phối toàn bộ hoạt động xã hội từ xây dựng, ban hành thể chế đến tổ chức kiểm tra việc thực hiện. Tuy tiền lương của cán bộ, công chức do ngân sách nhà nước bảo đảm nhưng trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế thì tiền lương của cán bộ, công chức phải đặt trong mối tương quan với mặt bằng tiền lương, thu nhập của khu vực thị trường.
Nếu không thỏa mãn tốt quan hệ này mà tiền lương của cán bộ, công chức quá thấp sẽ dẫn đến hội chứng “tước đoạt để bù đắp tiền lương” trong thực thi công vụ (tiêu cực, tham nhũng), can thiệp hành chính vào thị trường của các nhóm lợi ích để “đòi chia sẻ lợi ích”, làm lũng đoạn, méo mó thị trường và tăng dòng chuyển dịch lao động từ khu vực nhà nước ra khu vực thị trường, nơi có tiền lương và thu nhập cao hơn.
Để thực hiện được mục tiêu “Cải cách chính sách tiền lương phải tiến tới bảo đảm cho cán bộ, công chức, viên chức sống được bằng tiền lương ở mức trung bình khá trong xã hội” nêu tại Kết luận số 20-KL/TW ngày 28/01/2008 của Hội nghị Trung ương 6 khóa X và thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, đề nghị thực hiện mức lương tối thiểu (thấp nhất) đối với cán bộ, công chức theo 3 phương án như sau:
a) Phương án 1: Quy định mức lương tối thiểu áp dụng đối với cán bộ, công chức trên cơ sở bảo đảm nhu cầu tối thiểu (có tính đủ tiền nhà trong tiền lương) ở vùng có thị trường lao động phát triển nhất (vùng có mức lương tối thiểu cao nhất của khu vực doanh nghiệp).
Ưu điểm: Cán bộ, công chức sống được bằng tiền lương, tận tâm, gắn bó với công việc, tiền lương cao sẽ tạo ra động lực, tính cạnh tranh trong đội ngũ cán bộ, công chức, từ đó thực hiện tốt cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, có điều kiện sắp xếp, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, thu hút được người giỏi vào làm cán bộ, công chức, nâng cao được hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Nhược điểm: Tiền lương của cán bộ, công chức ở các vùng nông thôn sẽ cao hơn nhiều so với lao động trên cùng địa bàn, đặc biệt mức thu nhập của người dân ở những vùng khó khăn, huyện nghèo còn rất thấp so với mặt bằng chung của cả nước.
b) Phương án 2: Quy định mức lương tối thiểu áp dụng đối với cán bộ, công chức bằng mức bình quân của các mức lương tối thiểu vùng của khu vực doanh nghiệp, đồng thời áp dụng hệ số tăng thêm đối với cán bộ, công chức ở những vùng có thị trường lao động phát triển để mức lương tối thiểu (thấp nhất) của cán bộ, công chức cao hơn mức lương tối thiểu vùng của khu vực doanh nghiệp trên cùng địa bàn, bảo đảm tính cạnh tranh của tiền lương công chức nhằm thu hút người có tài năng vào làm việc trong bộ máy nhà nước.
Ưu điểm: Tiền lương của cán bộ, công chức được bảo đảm bằng mức trung bình khá của lao động trên cùng địa bàn, góp phần củng cố và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Nhược điểm: Phải quy định hệ số tăng thêm đối với những vùng có thị trường lao động phát triển, ảnh hưởng đến việc thu hút cán bộ, công chức đến công tác ở vùng khó khăn.
c) Phương án 3: Quy định mức lương tối thiểu áp dụng đối với cán bộ, công chức trên cơ sở mức thu nhập và mức chi tiêu bình quân đầu người của cả nước do Tổng cục Thống kê công bố.
Ưu điểm: Phương pháp xác định mức lương tối thiểu của công chức độc lập với phương pháp xác định mức lương tối thiểu khu vực doanh nghiệp; bảo đảm công chức có mức lương đủ sống.
Nhược điểm: Số liệu công bố về thu nhập bình quân do Tổng cục Thống kê công bố 2 năm/lần và thường công bố sau, nên có khó khăn trong việc đề xuất điều chỉnh tiền lương phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Phải có biện pháp quyết liệt về tạo nguồn thì mới thực hiện được.
Sau khi mức lương tối thiểu (thấp nhất) của cán bộ, công chức đạt được một trong 3 phương án nêu trên thì việc điều chỉnh mức lương tối thiểu đối với cán bộ, công chức được thực hiện trên cơ sở xem xét chỉ số giá tiêu dùng hàng năm, mặt bằng tiền công trên thị trường và khả năng của ngân sách nhà nước để Chính phủ quyết định bảo đảm tính cạnh tranh của tiền lương công chức.
2. Về quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa:
Theo tính toán của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trên cơ sở phương pháp xác định tiền lương của khu vực hành chính dựa trên hệ thống nhu cầu của người lao động và độ phức tạp lao động của từng chức danh, có tính đến tương quan so sánh với tiền lương trong khu vực thị trường để tăng cường tính cạnh tranh của hệ thống tiền lương nhằm giữ và thu hút người có chuyên môn kỹ thuật cao vào làm cán bộ, công chức và tham khảo kinh nghiệm quốc tế , dự kiến 2 phương án như sau:
a) Phương án 1: Quan hệ tiền lương tối thiểu (nhân viên phục vụ bậc 1)- trung bình (chuyên viên bậc 1)- tối đa (chuyên gia cao cấp bậc 3) theo cách tiếp cận tương quan với khu vực thị trường là 1 - 3,2 - 15. Tính theo mức lương tối thiểu 830.000 đồng/tháng thì có mức lương thấp nhất - mức lương trung bình - mức lương tối đa tương ứng là 830.000 đồng - 2.656.000 đồng/tháng - 12.450.000 đồng/tháng.
b) Phương án 2: Quan hệ tiền lương tối thiểu (nhân viên phục vụ bậc 1)- trung bình (chuyên viên bậc 1)- tối đa (chuyên gia cao cấp bậc 3) theo cách tiếp cận mức độ phức tạp lao động là 1 - 3,5 - 15. Tính theo mức lương tối thiểu 830.000 đồng/tháng (mức thấp nhất của khu vực doanh nghiệp) thì có mức lương thấp nhất - mức lương trung bình - mức lương tối đa tương ứng là 830.000 đồng - 2.905.000 đồng/tháng - 12.450.000 đồng/tháng.
Đối với các chế độ ngoài lương phục vụ hoạt động công vụ (tiền điện thoại, phụ cấp phục vụ, chế độ xe ô tô đưa đón công tác): Đây là các chế độ phục vụ cho hoạt động công vụ, đề nghị không đưa vào mức tiền lương cơ bản mà tiếp tục hoàn thiện các định mức và cơ chế khoán để sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm được kinh phí quản lý hành chính.
3. Về hệ thống thang lương, bảng lương:
Trên cơ sở mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa, nghiên cứu thiết kế hệ thống bảng lương mới đối với cán bộ, công chức như sau:
a) Đối với cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo:
Nghiên cứu thiết kế bảng lương đối với cán bộ, công chức giữ chức danh lãnh đạo từ Trung ương đến cấp xã cho phù hợp với Luật cán bộ, công chức và tạo điều kiện thuận lợi cho việc luân chuyển cán bộ trong hệ thống chính trị; đồng thời xem xét tương quan tiền lương giữa các vị trí chức danh lãnh đạo trong hệ thống chính trị cho phù hợp với tình hình mới. Dự kiến thiết kế bảng lương đối với cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo theo 2 phương án như sau:
- Phương án 1: Thiết kế bảng lương chức vụ đối với các chức danh lãnh đạo từ bộ trưởng và tương đương trở lên và cán bộ cấp xã chưa qua đào tạo. Các chức danh cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo còn lại xếp lương chuyên môn, nghiệp vụ cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo (như hiện nay). Để phù hợp với quản lý cán bộ, công chức theo vị trí việc làm, quy định các nhóm chức danh cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo tương đương nhau trong hệ thống chính trị ứng với một ngạch trong bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ.
Ưu điểm: Không làm xáo trộn hệ thống thang, bảng lương hiện hành, giữ được ổn định khi chuyển xếp lương cũ sang lương mới. Thuận lợi cho việc xếp lương khi điều động, luân chuyển hoặc khi thôi giữ chức danh cán bộ, lãnh đạo.
Nhược điểm: Ngoài hệ thống phụ cấp chức vụ lãnh đạo, còn phải quy định thêm các ngạch công chức chuẩn (sàn) ứng với từng nhóm chức danh cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo trong hệ thống chính trị.
- Phương án 2: Thiết kế 1 bảng lương chức vụ áp dụng chung đối với tất cả các chức danh cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo từ Trung ương đến cấp xã. Mỗi chức danh thiết kế 1 mức lương chức vụ. Nếu đảm nhiệm chức danh từ nhiệm kỳ thứ hai thì cứ đủ 5 năm (60 tháng) được hưởng thêm 5% mức lương hiện hưởng. Khi thôi giữ chức danh cán bộ hoặc thôi giữ chức danh lãnh đạo để làm công chức chuyên môn, nghiệp vụ thì được bổ nhiệm vào ngạch công chức đã được xếp trước trước khi xếp lương chức vụ, thời gian xếp lương chức vụ được tính để xếp lên bậc lương cao hơn trong ngạch được bổ nhiệm.
Ưu điểm: Tiền lương được gắn với vị trí chức danh (giữ chức danh lãnh đạo tương đương nhau thì hưởng mức lương như nhau). Tương quan tiền lương thể hiện rõ thứ bậc trong hệ thống chính trị.
Nhược điểm: Làm xáo trộn tương quan tiền lương hiện hành trong đội ngũ cán bộ, công chức. Công chức chuyên môn, nghiệp vụ đang hưởng mức lương ngạch, bậc thấp được bầu cử hoặc bổ nhiệm chức danh lãnh đạo có thể tăng đột biến về tiền lương, tương ứng bằng nhiều bậc lương chuyên môn, nghiệp vụ, không khuyến khích cán bộ công chức phát triển theo con đường chuyên môn, nghiệp vụ. Khó khăn cho việc xếp lương khi điều động, luân chuyển cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị hoặc khi thôi giữ chức danh lãnh đạo.
b) Đối với công chức chuyên môn, nghiệp vụ (không giữ chức danh lãnh đạo):
Kế thừa nguyên tắc thiết kế tiền lương của chế độ tiền lương hiện hành (công chức chuyên môn, nghiệp vụ ở các ngành, nghề áp dụng chung một bảng lương; các điều kiện lao động cao hơn bình thường và ưu đãi ngành, nghề thực hiện bằng phụ cấp ưu đãi, phụ cấp trách nhiệm theo nghề). Trên cơ sở mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa, nghiên cứu thiết kế hệ thống bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ theo 2 phương án như sau:
- Phương án 1:
Giữ nguyên tắc thiết kế bảng lương như chế độ tiền lương hiện hành (mỗi ngạch có một số bậc lương thâm niên) nhưng hoàn thiện theo hướng thu gọn các nhóm có cùng mức độ phức tạp công việc trong từng loại công chức của bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ áp dụng chung đối với cán bộ, công chức làm việc trong các lĩnh vực hành chính (Đảng, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội), tòa án, kiểm sát, tư pháp. Đồng thời, đổi tên loại công chức cho phù hợp với Luật cán bộ, công chức. Cụ thể là:
Ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương: đổi tên loại A3 thành loại A; gộp nhóm 1 và nhóm 2 thành 1 nhóm; có 6 bậc (bớt 1 bậc ở nhóm 1 hiện nay).
Ngạch chuyên viên chính và tương đương: đổi tên loại A2 thành loại B; gộp nhóm 1 và nhóm 2 thành 1 nhóm; có 8 bậc (bớt 1 bậc ở nhóm 1 hiện nay).
Ngạch chuyên viên và tương đương: đổi tên loại A1 thành loại C1 có 9 bậc.
Ngạch cao đẳng: đổi tên loại A0 thành loại C2, có 10 bậc.
Ngạch nhân viên: đổi tên loại B và loại C thành loại D, trong đó có 2 nhóm, gồm: Nhóm D1 (loại B cũ); Nhóm D2 (gộp nhóm C1, nhóm C2 và nhóm C3 cũ).
Thực hiện chế độ nâng bậc lương thường xuyên và nâng bậc lương trước thời hạn như hiện hành.
Ưu điểm: Không làm xáo trộn hệ thống bảng lương hiện hành, giữ được ổn định khi chuyển xếp lương cũ sang lương mới.
Nhược điểm: Do chỉ có một số bậc lương theo thâm niên nên phải tiếp tục duy trì chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung. Phụ cấp này được dùng để tính đóng, hưởng bảo hiểm xã hội và được tính để xếp vào hệ số lương khi nâng ngạch nên thực chất là bậc lương kéo dài nhưng không được xét hưởng trước thời hạn như chế độ nâng bậc lương.
- Phương án 2:
Thiết kế bảng lương mới theo nguyên tắc mỗi ngạch công chức chỉ có một mức lương. Theo đó, bãi bỏ chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung.
Ưu điểm: Đơn giản, dễ thực hiện, bỏ bớt được chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung và bảo đảm được quyền lợi của công chức mà không bị quy định quá nhiều bậc lương, không bị hiểu nhầm là có “bậc treo”. Đồng thời thể hiện rõ được quy định tiền lương theo mỗi vị trí việc làm.
Nhược điểm: Cần phải thay đổi một số quy định về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức gắn với ngạch, bậc lương (như chế độ khám chữa bệnh,...). Việc hướng dẫn chuyển xếp lương cũ sang lương mới phức tạp hơn phương án 1.
Khi ban hành hệ thống thang, bảng lương mới trên cơ sở mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa và khi điều chỉnh các mức lương trong hệ thống thang, bảng lương thông qua tăng mức lương tối thiểu cần quy định cả bằng hệ số và bằng mức tiền (bằng mức lương tối thiểu nhân với hệ số lương) để phản ánh đúng chức năng của tiền lương.
4. Về các chế độ phụ cấp:
a) Tiếp tục thực hiện và hoàn thiện các chế độ phụ cấp sau:
- Nâng mức phụ cấp chức vụ lãnh đạo khi mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa (nếu thực hiện phương án thiết kế xếp lương chuyên môn, nghiệp vụ cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo).
- Sửa đổi chế độ phụ cấp kiêm nhiệm để cán bộ, công chức (gồm cán bộ, công chức giữ chức danh lãnh đạo và công chức không giữ chức vụ lãnh đạo) nếu kiêm thêm công việc mà giảm được biên chế đều được hưởng một mức phụ cấp 20% mức lương hiện hưởng.
- Hoàn thiện các địa bàn, đối tượng hưởng các chế độ: phụ cấp khu vực, phụ cấp đặc biệt, phụ cấp thu hút, phụ cấp công tác lâu năm ở vùng đặc biệt khó khăn, phụ cấp lưu động, phụ cấp độc hại, nguy hiểm, phụ cấp trách nhiệm công việc, phụ cấp thâm niên nghề cho phù hợp với tình hình thực tế.
- Giảm mức phụ cấp ưu đãi theo nghề, trách nhiệm theo nghề cao nhất từ 70% hiện nay xuống 30% (do mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa và mức lương cơ bản đã được thiết kế trên cơ sở tính toán nhu cầu của người lao động), chỉ áp dụng đối với một số ít ngành, nghề có điều kiện lao động cao hơn bình thường hoặc thật sự cần thiết phải có ưu đãi của Nhà nước. Trên cơ sở đó, nghiên cứu bãi bỏ chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề, phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với một số đối tượng để bảo đảm tương quan chung sau khi đã mở rộng quan hệ tiền lương.
b) Tiếp tục thực hiện điều chỉnh tăng hằng năm chế độ phụ cấp công vụ cho đến khi đạt mức 50% để thể hiện rõ ưu đãi của nhà nước đối với cán bộ, công chức nhằm nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của cán bộ, công chức và lực lượng vũ trang; giúp thu hút người làm việc có chất lượng trong các cơ quan nhà nước và hệ thống chính trị.
c) Bổ sung chế độ phụ cấp theo phân loại đơn vị hành chính áp dụng đối với cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, gồm 3 mức: 5%, 10% và 15% mức lương hiện hưởng (thay cho việc quy định mức phụ cấp chức vụ khác nhau theo phân loại đô thị hiện nay).
d) Bãi bỏ chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung nếu thực hiện thiết kế bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ đối với công chức theo phương án mỗi ngạch (chức danh) chỉ có một mức lương.
5. Về chế độ nâng bậc lương, nâng ngạch:
a) Tiếp tục thực hiện chế độ nâng lương thường xuyên.
- Trường hợp thiết kế bảng lương theo phương án 1 như hiện nay (có một số bậc lương trong ngạch): Cứ sau mỗi khoảng thời gian xếp lương ở ngạch (3 năm đối với loại A, loại B, loại C và 2 năm đối với loại D) và hoàn thành nhiệm vụ được giao thì được nâng 1 bậc lương.
- Trường hợp thiết kế bảng lương theo phương án 2 (mỗi ngạch chỉ có một mức lương): Cứ sau mỗi khoảng thời gian xếp lương ở ngạch (3 năm đối với loại A, loại B, loại C và 2 năm đối với loại D) và hoàn thành nhiệm vụ được giao thì được hưởng thêm 5% mức lương hiện hưởng.
b) Sửa đổi thời gian được nâng lương trước thời hạn (12 tháng) khi có thông báo nghỉ hưu.
c) Nâng tỷ lệ từ 5% lên 10% cán bộ, công chức, viên chức được nâng lương trước thời hạn do lập thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ để tạo điều kiện cho nhiều công chức chuyên môn, nghiệp vụ có thành tích, có tài năng được thụ hưởng chính sách này.
d) Quy định rõ trong thời gian cán bộ, công chức nữ mang thai và nghỉ thai sản theo pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội được tính là thời gian hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cộng với thành tích trong thời gian giữ bậc còn lại để ưu tiên xét nâng bậc lương trước thời hạn do đạt thành tích xuất sắc.
đ) Đẩy nhanh việc thi nâng ngạch cạnh tranh gắn với vị trí việc làm, cơ cấu ngạch công chức, sắp xếp bố trí công việc phù hợp với ngạch công chức.
6. Cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập:
a) Đẩy mạnh việc thực hiện các quy định của Luật Cán bộ, công chức để từng bước thực hiện quản lý cán bộ, công chức theo vị trí việc làm. Trên cơ sở xác định rõ vị trí việc làm, biên chế của từng cơ quan, tổ chức, tiến hành đánh giá thực trạng cán bộ, công chức để từng bước sắp xếp, bố trí lại cán bộ, công chức cho phù hợp. Để khuyến khích các cơ quan, tổ chức tiết kiệm biên chế, nâng cao thu nhập, đề nghị thực hiện khoán quỹ tiền lương và kinh phí quản lý hành chính đến đơn vị trực tiếp sử dụng cán bộ, công chức.
b) Gắn cải cách tiền lương với cải cách hành chính, xác định rõ chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước của từng cơ quan, đơn vị, từng lĩnh vực quản lý.
c) Do mức lương đối với cán bộ, công chức nói chung đã được tính toán bảo đảm nhu cầu và để bảo đảm tương quan chung về tiền lương trong đội ngũ cán bộ, công chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước, đề nghị:
- Để bảo đảm tính thống nhất và tương quan tiền lương của cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước, đề nghị bãi bỏ các quy định hiện hành của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế quản lý tài chính và biên chế đối với các cơ quan: kho bạc, thuế, hải quan, Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban chứng khoán, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia hoặc giảm dần mức tiền lương cao hơn của cán bộ, công chức thuộc các cơ quan nêu trên tương ứng với mức tăng lương theo lộ trình (tương tự như đã làm đối với các doanh nghiệp nhà nước).
- Để cán bộ, công chức coi trọng công việc chính đảm nhiệm, minh bạch trong hoạt động công vụ và thu nhập của cán bộ, công chức, giảm các công việc (thời gian, biên chế) dành cho việc quyết toán (chứng từ) chi tiêu ngân sách nhà nước, đề nghị nghiêm cấm (bãi bỏ) các khoản chi ngoài lương có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước cho cán bộ, công chức, như: tiền bồi dưỡng họp, tiền bồi dưỡng cho người chủ trì hoặc tham gia đóng góp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đề án, đề tài, thù lao báo cáo viên hoặc giảng viên kiêm nhiệm, tiền hỗ trợ ăn trưa,...
IV. ĐỐI VỚI CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC TRONG CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
1. Mức lương tối thiểu (thấp nhất) của công chức, viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập bằng mức lương tối thiểu (thấp nhất) của cán bộ, công chức trong cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội.
2. Quy định 1 bảng lương áp dụng chung đối với công chức, viên chức ở tất cả các ngành sự nghiệp có mức lương tương đương với bảng lương công chức chuyên môn, nghiệp vụ và được áp dụng các chế độ phụ cấp lương như đối với cán bộ, công chức để làm căn cứ cấp hoặc hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước, tính đóng và hưởng bảo hiểm xã hội, đóng bảo hiểm y tế, trả lương ngày nghỉ theo chế độ. Tiền lương thực trả gắn với vị trí việc làm, chức danh nghề nghiệp theo quy định của Luật Viên chức và phụ thuộc vào nguồn thu (từ ngân sách cấp và từ xã hội hóa), kết quả hoạt động và do đơn vị sự nghiệp quyết định theo nguyên tắc đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính (trong đó có tiền lương) theo Kết luận số 20-KL/TW ngày 28/01/2008 của Hội nghị Trung ương 6 khóa X.
3. Đổi mới cơ chế quản lý và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp:
a) Đổi mới phương thức hoạt động, cơ chế tài chính và tiền lương đối với khu vực sự nghiệp công lập theo hướng đơn vị sự nghiệp được thu phí (giá) dịch vụ tính đủ tiền lương và từng bước tính đủ các chi phí khác; đơn vị sự nghiệp thực hiện hạch toán thu – chi (không vì mục đích lợi nhuận), trên cơ sở đó nâng cao chất lượng, phát triển hoạt động để vừa phục vụ tốt hơn nhu cầu của xã hội, vừa tự cân đối nguồn thu (nguồn từ ngân sách nhà nước thanh toán cho các đối tượng chính sách và cho các dịch vụ không có thu mà Nhà nước phải bảo đảm; nguồn do đối tượng thụ hưởng chi trả) nhằm tạo điều kiện thuận lợi phát huy tối đa tính chủ động, sáng tạo và nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp. Tăng cường phân cấp và tăng tính tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trên cơ sở có tính đến đặc điểm từng loại hình dịch vụ, khả năng và nhu cầu thị trường, trình độ quản lý để xác định mức độ, bước đi phù hợp. Nhà nước trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị công lập đồng bộ cả về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, nhân lực, tài chính và thực hiện có lộ trình việc xóa bỏ bao cấp qua giá, phí dịch vụ. Chuyển đổi cơ chế cấp phát kinh phí sang hình thức đặt hàng trên cơ sở hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật và tiêu chí, tiêu chuẩn của từng loại hình dịch vụ để các đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ về chi phí thường xuyên. Đi đôi với đổi mới cơ chế, tiếp tục hỗ trợ cho các đối tượng chính sách xã hội, các đối tượng nghèo sử dụng các dịch vụ này. Thực hiện minh bạch hóa trong các hoạt động liên doanh, liên kết của các đơn vị sự nghiệp công; khắc phục tình trạng công - tư lẫn lộn; đổi mới cơ chế phân phối theo hướng vừa bảo đảm quyền lợi của người lao động vừa có tích lũy để tái đầu tư tăng cường cơ sở vật chất của đơn vị sự nghiệp công.
b) Phân loại các đơn vị sự nghiệp để có cơ chế quản lý đối với từng loại theo quy định của Luật Viên chức, gồm:
- Đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự;
- Đơn vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự.
V. CÁC GIẢI PHÁP TẠO NGUỒN
1. Thực hiện đồng bộ các giải pháp thu ngân sách nhà nước để bảo đảm nguồn thu ngân sách hàng năm; đồng thời tăng cường quản lý giá cả, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối vĩ mô của kinh tế.
2. Bố trí cân đối chi ngân sách nhà nước theo hướng xác định tỷ trọng chi đầu tư phát triển hợp lý trong tổng chi ngân sách nhà nước để dành nguồn cho chi cải cách tiền lương và các nhiệm vụ an sinh xã hội đã ban hành.
3. Thực hiện rà soát tổng thể các nhiệm vụ đã ban hành trong thời gian qua, các nhiệm vụ nào đã hoàn thành mục tiêu thì dừng bố trí kinh phí; đối với các nhiệm vụ cần tiếp tục ban hành thì phải xem xét lồng ghép, đảm bảo nâng cao hiệu quả, tránh lãng phí; đối với các nhiệm vụ mới dự kiến ban hành, cần tính toán kỹ để đảm bảo đủ nguồn lực thực hiện, đảm bảo cân đối và an ninh tài chính quốc gia.
4. Đẩy nhanh lộ trình xã hội hóa các loại hình sự nghiệp, nhất là y tế, giáo dục với mức độ cao hơn để tiến tới các đơn vị sự nghiệp tự lo trang trải tiền lương và một phần chi phí hoạt động.
5. Phân cấp cho chính quyền địa phương về sử dụng biên chế gắn với ngân sách trả lương đối với cán bộ, công chức trên địa bàn theo hướng địa phương có nguồn thu, kinh tế phát triển thì được chi trả tiền lương tăng thêm không quá 50% so với chế độ tiền lương do Nhà nước quy định.
Bộ Nội vụ
Tiêu đề do VietNamNet đặt
Trong điều kiện nước ta bước vào thời kỳ chiến lược mới (2011 – 2020) trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh…sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Kinh tế thế giới tuy có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, bất ổn; quá trình cấu trúc lại diễn ra mạnh mẽ ở các nước. Cạnh tranh kinh tế thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao,…giữa các nước ngày càng gay gắt.
Ở trong nước, những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới đã tạo cho đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước. Những năm tới là giai đoạn kinh tế nước ta phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng sau thời kỳ suy giảm, cấu trúc lại nền kinh tế để phát triển nhanh và bền vững; khắc phục những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại.
Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Nước ta đã vào khối có thu nhập trung bình (từ 1.000 USD đến dưới 10.000 USD) nhưng nước ta mới đang ở mức đầu tiên, nên vẫn còn nhiều khó khăn. Tình hình kinh tế vĩ mô của đất nước còn có những yếu kém như: Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp; các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý, lạm phát cao, sử dụng nguồn vốn kém hiệu quả, nợ công…
Theo số liệu của Bộ Tài chính công bố thì tổng dư nợ nước ngoài năm 2010 của Chính phủ và các khoản vay của doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh khoảng 32,5 tỷ USD, chiếm 42,2% so với GDP. Theo đó, căn cứ vào thời điểm đáo hạn thì từ nay đến năm 2015, mỗi năm chúng ta phải trả nợ gốc và lãi cho nước ngoài gần 1,5 tỷ USD và mức trả nợ cao nhất là 2,4 tỷ USD vào năm 2020…
Tiền lương phải được coi là giá cả sức lao động. Ảnh minh họa: Bình Minh |
II. ĐỊNH HƯỚNG CHUNG:
1. Tập trung thực hiện kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội giai đoạn 2012 – 2020 đã được Đại hội XI của Đảng thông qua.
2. Tiền lương phải được coi là giá cả sức lao động, được hình thành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
3. Kiên quyết khắc phục những bất hợp lý về tiền lương và trợ cấp xã hội phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước; gắn cải cách tiền lương với sắp xếp, kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của hệ thống chính trị.
4. Cải cách chính sách tiền lương, thu nhập, chính sách nhà ở bảo đảm cho cán bộ, công chức sống được bằng tiền lương ở mức trung bình khá trong xã hội để họ gắn bó với bộ máy nhà nước và làm tròn trách nhiệm công vụ của mình, góp phần phòng, chống tham nhũng. Tiền lương của cán bộ, công chức phải hợp lý trong mối tương quan với mặt bằng tiền lương khu vực thị trường để thu hút và giữ nhân tài làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, theo đó cần xác định hệ số chênh lệch cao hơn giữa tiền lương của cán bộ, công chức so với tiền lương của lao động khu vực thị trường.
5. Cải cách chính sách tiền lương phải trên cơ sở hình thành cơ chế riêng đối với từng khu vực (hành chính, lực lượng vũ trang, sự nghiệp, doanh nghiệp, bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công) và thay đổi kết cấu mục lục ngân sách ngân sách nhà nước cho phù hợp, cụ thể như sau:
a) Đối với khu vực hành chính (cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội):
- Tiền lương của cán bộ, công chức do ngân sách nhà nước bảo đảm và tính trong chi quản lý hành chính nhà nước.
- Tập trung đột phá nâng mức lương tối thiểu (thấp nhất) để cán bộ, công chức đủ sống bằng tiền lương.
- Mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa cho phù hợp, trên cơ sở đó ban hành hệ thống bảng lương, ngạch, bậc mới bảo đảm tính hợp lý, phù hợp với thứ bậc trong hệ thống chính trị. Sắp xếp lại các chế độ phụ cấp lương trên cơ sở xem xét đưa một số chế độ phụ cấp lương hiện hành vào mức lương theo quan hệ tiền lương mới cho phù hợp.
- Thực hiện quản lý cán bộ, công chức theo quy định của Luật Cán bộ, công chức trên cơ sở xác định rõ vị trí việc làm, biên chế của từng cơ quan, tổ chức, tiến hành đánh giá thực trạng cán bộ, công chức để sắp xếp, bố trí lại cán bộ, công chức cho phù hợp; thực hiện khoán quỹ tiền lương và kinh phí quản lý hành chính đến đơn vị trực tiếp sử dụng cán bộ, công chức.
b) Đối với lực lượng vũ trang:
- Tiền lương của lực lượng vũ trang do ngân sách bảo đảm và tính trong chi ngân sách nhà nước cho quốc phòng, an ninh.
- Giữ tương quan tiền lương giữa lực lượng vũ trang so với công chức hành chính như hiện nay.
c) Đối với khu vực sự nghiệp dịch vụ công:
- Tiền lương của công chức, viên chức trong đơn vị sự nghiệp công do quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công bảo đảm và được tính trong chi ngân sách nhà nước cho ngành (giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, văn hóa, thể thao, du lịch, kinh tế,....).
- Đẩy mạnh thực hiện đổi mới phương thức hoạt động, cơ chế tài chính và tiền lương đối với khu vực sự nghiệp công lập theo hướng đơn vị sự nghiệp được thu phí (giá) dịch vụ tính đủ tiền lương và từng bước tính đủ các chi phí khác; đơn vị sự nghiệp thực hiện hạch toán thu – chi (không vì mục đích lợi nhuận), trên cơ sở đó nâng cao chất lượng, phát triển hoạt động để vừa phục vụ tốt hơn nhu cầu của xã hội, vừa tự cân đối nguồn thu (nguồn từ ngân sách nhà nước thanh toán cho các đối tượng chính sách và cho các dịch vụ không có thu mà Nhà nước phải bảo đảm; nguồn do đối tượng thụ hưởng chi trả).
- Nhà nước chỉ quy định bảng lương áp dụng chung đối với viên chức ở tất cả các ngành sự nghiệp có mức lương tương đương với bảng lương công chức chuyên môn, nghiệp vụ để làm căn cứ cấp hoặc hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước, tính đóng và hưởng bảo hiểm xã hội, đóng bảo hiểm y tế, trả lương ngày nghỉ theo chế độ. Tiền lương thực trả gắn với vị trí việc làm, chức danh nghề nghiệp theo quy định của Luật Viên chức và phụ thuộc vào nguồn thu của đơn vị.
d) Đối với khu vực sản xuất kinh doanh:
Tiền lương đối với người lao động trong khu vực doanh nghiệp được thực hiện theo cơ chế riêng. Việc xây dựng mức lương tối thiểu của khu vực doanh nghiệp phải theo nguyên tắc bảo đảm đời sống tối thiểu của người lao động, có quy định chặt chẽ để doanh nghiệp trả lương cho người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu, gắn với việc đóng và hưởng bảo hiểm xã hội theo quy định.
đ) Đối với lương hưu và trợ cấp ưu đãi người có công:
Thực hiện điều chỉnh lương hưu và trợ cấp ưu đãi người có công độc lập với tiền lương của người tại chức và thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và đãi ngộ người có công.
Lương hưu của người nghỉ hưu từ ngày 01/01/1995 do quỹ bảo hiểm xã hội bảo đảm.
Lương hưu đối với người nghỉ hưu trước ngày 01/01/1995 và trợ cấp ưu đãi người có công do ngân sách nhà nước bảo đảm và tính trong chi ngân sách nhà nước cho an sinh và phúc lợi xã hội.
III. ĐỊNH HƯỚNG CẢI CÁCH TIỀN LƯƠNG ĐỐI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRONG CƠ QUAN ĐẢNG, NHÀ NƯỚC, TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI:
1.Về mức lương tối thiểu (thấp nhất):
Cán bộ, công chức là một bộ phận của thị trường lao động. Mặt khác, lao động của cán bộ, công chức có những yếu tố đòi hỏi tiền lương phải cao hơn mặt bằng chung trong xã hội như cán bộ, công chức phải chủ yếu sống bằng tiền lương, trình độ đào tạo của cán bộ, công chức cao hơn so với đội ngũ lao động nói chung trong xã hội và đòi hỏi trách nhiệm cao trong hoạt động công vụ, đồng thời cán bộ, công chức bị điều chỉnh bởi nhiều quy định không được làm để có thu nhập thêm như các loại lao động khác trong xã hội.
Cán bộ, công chức làm việc trong cơ quan Đảng, Nhà nước là cơ quan quyền lực chi phối toàn bộ hoạt động xã hội từ xây dựng, ban hành thể chế đến tổ chức kiểm tra việc thực hiện. Tuy tiền lương của cán bộ, công chức do ngân sách nhà nước bảo đảm nhưng trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế thì tiền lương của cán bộ, công chức phải đặt trong mối tương quan với mặt bằng tiền lương, thu nhập của khu vực thị trường.
Nếu không thỏa mãn tốt quan hệ này mà tiền lương của cán bộ, công chức quá thấp sẽ dẫn đến hội chứng “tước đoạt để bù đắp tiền lương” trong thực thi công vụ (tiêu cực, tham nhũng), can thiệp hành chính vào thị trường của các nhóm lợi ích để “đòi chia sẻ lợi ích”, làm lũng đoạn, méo mó thị trường và tăng dòng chuyển dịch lao động từ khu vực nhà nước ra khu vực thị trường, nơi có tiền lương và thu nhập cao hơn.
Để thực hiện được mục tiêu “Cải cách chính sách tiền lương phải tiến tới bảo đảm cho cán bộ, công chức, viên chức sống được bằng tiền lương ở mức trung bình khá trong xã hội” nêu tại Kết luận số 20-KL/TW ngày 28/01/2008 của Hội nghị Trung ương 6 khóa X và thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, đề nghị thực hiện mức lương tối thiểu (thấp nhất) đối với cán bộ, công chức theo 3 phương án như sau:
a) Phương án 1: Quy định mức lương tối thiểu áp dụng đối với cán bộ, công chức trên cơ sở bảo đảm nhu cầu tối thiểu (có tính đủ tiền nhà trong tiền lương) ở vùng có thị trường lao động phát triển nhất (vùng có mức lương tối thiểu cao nhất của khu vực doanh nghiệp).
Ưu điểm: Cán bộ, công chức sống được bằng tiền lương, tận tâm, gắn bó với công việc, tiền lương cao sẽ tạo ra động lực, tính cạnh tranh trong đội ngũ cán bộ, công chức, từ đó thực hiện tốt cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, có điều kiện sắp xếp, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, thu hút được người giỏi vào làm cán bộ, công chức, nâng cao được hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Nhược điểm: Tiền lương của cán bộ, công chức ở các vùng nông thôn sẽ cao hơn nhiều so với lao động trên cùng địa bàn, đặc biệt mức thu nhập của người dân ở những vùng khó khăn, huyện nghèo còn rất thấp so với mặt bằng chung của cả nước.
b) Phương án 2: Quy định mức lương tối thiểu áp dụng đối với cán bộ, công chức bằng mức bình quân của các mức lương tối thiểu vùng của khu vực doanh nghiệp, đồng thời áp dụng hệ số tăng thêm đối với cán bộ, công chức ở những vùng có thị trường lao động phát triển để mức lương tối thiểu (thấp nhất) của cán bộ, công chức cao hơn mức lương tối thiểu vùng của khu vực doanh nghiệp trên cùng địa bàn, bảo đảm tính cạnh tranh của tiền lương công chức nhằm thu hút người có tài năng vào làm việc trong bộ máy nhà nước.
Ưu điểm: Tiền lương của cán bộ, công chức được bảo đảm bằng mức trung bình khá của lao động trên cùng địa bàn, góp phần củng cố và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Nhược điểm: Phải quy định hệ số tăng thêm đối với những vùng có thị trường lao động phát triển, ảnh hưởng đến việc thu hút cán bộ, công chức đến công tác ở vùng khó khăn.
c) Phương án 3: Quy định mức lương tối thiểu áp dụng đối với cán bộ, công chức trên cơ sở mức thu nhập và mức chi tiêu bình quân đầu người của cả nước do Tổng cục Thống kê công bố.
Ưu điểm: Phương pháp xác định mức lương tối thiểu của công chức độc lập với phương pháp xác định mức lương tối thiểu khu vực doanh nghiệp; bảo đảm công chức có mức lương đủ sống.
Nhược điểm: Số liệu công bố về thu nhập bình quân do Tổng cục Thống kê công bố 2 năm/lần và thường công bố sau, nên có khó khăn trong việc đề xuất điều chỉnh tiền lương phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Phải có biện pháp quyết liệt về tạo nguồn thì mới thực hiện được.
Sau khi mức lương tối thiểu (thấp nhất) của cán bộ, công chức đạt được một trong 3 phương án nêu trên thì việc điều chỉnh mức lương tối thiểu đối với cán bộ, công chức được thực hiện trên cơ sở xem xét chỉ số giá tiêu dùng hàng năm, mặt bằng tiền công trên thị trường và khả năng của ngân sách nhà nước để Chính phủ quyết định bảo đảm tính cạnh tranh của tiền lương công chức.
2. Về quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa:
Theo tính toán của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trên cơ sở phương pháp xác định tiền lương của khu vực hành chính dựa trên hệ thống nhu cầu của người lao động và độ phức tạp lao động của từng chức danh, có tính đến tương quan so sánh với tiền lương trong khu vực thị trường để tăng cường tính cạnh tranh của hệ thống tiền lương nhằm giữ và thu hút người có chuyên môn kỹ thuật cao vào làm cán bộ, công chức và tham khảo kinh nghiệm quốc tế , dự kiến 2 phương án như sau:
a) Phương án 1: Quan hệ tiền lương tối thiểu (nhân viên phục vụ bậc 1)- trung bình (chuyên viên bậc 1)- tối đa (chuyên gia cao cấp bậc 3) theo cách tiếp cận tương quan với khu vực thị trường là 1 - 3,2 - 15. Tính theo mức lương tối thiểu 830.000 đồng/tháng thì có mức lương thấp nhất - mức lương trung bình - mức lương tối đa tương ứng là 830.000 đồng - 2.656.000 đồng/tháng - 12.450.000 đồng/tháng.
b) Phương án 2: Quan hệ tiền lương tối thiểu (nhân viên phục vụ bậc 1)- trung bình (chuyên viên bậc 1)- tối đa (chuyên gia cao cấp bậc 3) theo cách tiếp cận mức độ phức tạp lao động là 1 - 3,5 - 15. Tính theo mức lương tối thiểu 830.000 đồng/tháng (mức thấp nhất của khu vực doanh nghiệp) thì có mức lương thấp nhất - mức lương trung bình - mức lương tối đa tương ứng là 830.000 đồng - 2.905.000 đồng/tháng - 12.450.000 đồng/tháng.
Đối với các chế độ ngoài lương phục vụ hoạt động công vụ (tiền điện thoại, phụ cấp phục vụ, chế độ xe ô tô đưa đón công tác): Đây là các chế độ phục vụ cho hoạt động công vụ, đề nghị không đưa vào mức tiền lương cơ bản mà tiếp tục hoàn thiện các định mức và cơ chế khoán để sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm được kinh phí quản lý hành chính.
3. Về hệ thống thang lương, bảng lương:
Trên cơ sở mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa, nghiên cứu thiết kế hệ thống bảng lương mới đối với cán bộ, công chức như sau:
a) Đối với cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo:
Nghiên cứu thiết kế bảng lương đối với cán bộ, công chức giữ chức danh lãnh đạo từ Trung ương đến cấp xã cho phù hợp với Luật cán bộ, công chức và tạo điều kiện thuận lợi cho việc luân chuyển cán bộ trong hệ thống chính trị; đồng thời xem xét tương quan tiền lương giữa các vị trí chức danh lãnh đạo trong hệ thống chính trị cho phù hợp với tình hình mới. Dự kiến thiết kế bảng lương đối với cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo theo 2 phương án như sau:
- Phương án 1: Thiết kế bảng lương chức vụ đối với các chức danh lãnh đạo từ bộ trưởng và tương đương trở lên và cán bộ cấp xã chưa qua đào tạo. Các chức danh cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo còn lại xếp lương chuyên môn, nghiệp vụ cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo (như hiện nay). Để phù hợp với quản lý cán bộ, công chức theo vị trí việc làm, quy định các nhóm chức danh cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo tương đương nhau trong hệ thống chính trị ứng với một ngạch trong bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ.
Ưu điểm: Không làm xáo trộn hệ thống thang, bảng lương hiện hành, giữ được ổn định khi chuyển xếp lương cũ sang lương mới. Thuận lợi cho việc xếp lương khi điều động, luân chuyển hoặc khi thôi giữ chức danh cán bộ, lãnh đạo.
Nhược điểm: Ngoài hệ thống phụ cấp chức vụ lãnh đạo, còn phải quy định thêm các ngạch công chức chuẩn (sàn) ứng với từng nhóm chức danh cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo trong hệ thống chính trị.
- Phương án 2: Thiết kế 1 bảng lương chức vụ áp dụng chung đối với tất cả các chức danh cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo từ Trung ương đến cấp xã. Mỗi chức danh thiết kế 1 mức lương chức vụ. Nếu đảm nhiệm chức danh từ nhiệm kỳ thứ hai thì cứ đủ 5 năm (60 tháng) được hưởng thêm 5% mức lương hiện hưởng. Khi thôi giữ chức danh cán bộ hoặc thôi giữ chức danh lãnh đạo để làm công chức chuyên môn, nghiệp vụ thì được bổ nhiệm vào ngạch công chức đã được xếp trước trước khi xếp lương chức vụ, thời gian xếp lương chức vụ được tính để xếp lên bậc lương cao hơn trong ngạch được bổ nhiệm.
Ưu điểm: Tiền lương được gắn với vị trí chức danh (giữ chức danh lãnh đạo tương đương nhau thì hưởng mức lương như nhau). Tương quan tiền lương thể hiện rõ thứ bậc trong hệ thống chính trị.
Nhược điểm: Làm xáo trộn tương quan tiền lương hiện hành trong đội ngũ cán bộ, công chức. Công chức chuyên môn, nghiệp vụ đang hưởng mức lương ngạch, bậc thấp được bầu cử hoặc bổ nhiệm chức danh lãnh đạo có thể tăng đột biến về tiền lương, tương ứng bằng nhiều bậc lương chuyên môn, nghiệp vụ, không khuyến khích cán bộ công chức phát triển theo con đường chuyên môn, nghiệp vụ. Khó khăn cho việc xếp lương khi điều động, luân chuyển cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị hoặc khi thôi giữ chức danh lãnh đạo.
b) Đối với công chức chuyên môn, nghiệp vụ (không giữ chức danh lãnh đạo):
Kế thừa nguyên tắc thiết kế tiền lương của chế độ tiền lương hiện hành (công chức chuyên môn, nghiệp vụ ở các ngành, nghề áp dụng chung một bảng lương; các điều kiện lao động cao hơn bình thường và ưu đãi ngành, nghề thực hiện bằng phụ cấp ưu đãi, phụ cấp trách nhiệm theo nghề). Trên cơ sở mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa, nghiên cứu thiết kế hệ thống bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ theo 2 phương án như sau:
- Phương án 1:
Giữ nguyên tắc thiết kế bảng lương như chế độ tiền lương hiện hành (mỗi ngạch có một số bậc lương thâm niên) nhưng hoàn thiện theo hướng thu gọn các nhóm có cùng mức độ phức tạp công việc trong từng loại công chức của bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ áp dụng chung đối với cán bộ, công chức làm việc trong các lĩnh vực hành chính (Đảng, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội), tòa án, kiểm sát, tư pháp. Đồng thời, đổi tên loại công chức cho phù hợp với Luật cán bộ, công chức. Cụ thể là:
Ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương: đổi tên loại A3 thành loại A; gộp nhóm 1 và nhóm 2 thành 1 nhóm; có 6 bậc (bớt 1 bậc ở nhóm 1 hiện nay).
Ngạch chuyên viên chính và tương đương: đổi tên loại A2 thành loại B; gộp nhóm 1 và nhóm 2 thành 1 nhóm; có 8 bậc (bớt 1 bậc ở nhóm 1 hiện nay).
Ngạch chuyên viên và tương đương: đổi tên loại A1 thành loại C1 có 9 bậc.
Ngạch cao đẳng: đổi tên loại A0 thành loại C2, có 10 bậc.
Ngạch nhân viên: đổi tên loại B và loại C thành loại D, trong đó có 2 nhóm, gồm: Nhóm D1 (loại B cũ); Nhóm D2 (gộp nhóm C1, nhóm C2 và nhóm C3 cũ).
Thực hiện chế độ nâng bậc lương thường xuyên và nâng bậc lương trước thời hạn như hiện hành.
Ưu điểm: Không làm xáo trộn hệ thống bảng lương hiện hành, giữ được ổn định khi chuyển xếp lương cũ sang lương mới.
Nhược điểm: Do chỉ có một số bậc lương theo thâm niên nên phải tiếp tục duy trì chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung. Phụ cấp này được dùng để tính đóng, hưởng bảo hiểm xã hội và được tính để xếp vào hệ số lương khi nâng ngạch nên thực chất là bậc lương kéo dài nhưng không được xét hưởng trước thời hạn như chế độ nâng bậc lương.
- Phương án 2:
Thiết kế bảng lương mới theo nguyên tắc mỗi ngạch công chức chỉ có một mức lương. Theo đó, bãi bỏ chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung.
Ưu điểm: Đơn giản, dễ thực hiện, bỏ bớt được chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung và bảo đảm được quyền lợi của công chức mà không bị quy định quá nhiều bậc lương, không bị hiểu nhầm là có “bậc treo”. Đồng thời thể hiện rõ được quy định tiền lương theo mỗi vị trí việc làm.
Nhược điểm: Cần phải thay đổi một số quy định về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức gắn với ngạch, bậc lương (như chế độ khám chữa bệnh,...). Việc hướng dẫn chuyển xếp lương cũ sang lương mới phức tạp hơn phương án 1.
Khi ban hành hệ thống thang, bảng lương mới trên cơ sở mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa và khi điều chỉnh các mức lương trong hệ thống thang, bảng lương thông qua tăng mức lương tối thiểu cần quy định cả bằng hệ số và bằng mức tiền (bằng mức lương tối thiểu nhân với hệ số lương) để phản ánh đúng chức năng của tiền lương.
4. Về các chế độ phụ cấp:
a) Tiếp tục thực hiện và hoàn thiện các chế độ phụ cấp sau:
- Nâng mức phụ cấp chức vụ lãnh đạo khi mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa (nếu thực hiện phương án thiết kế xếp lương chuyên môn, nghiệp vụ cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo).
- Sửa đổi chế độ phụ cấp kiêm nhiệm để cán bộ, công chức (gồm cán bộ, công chức giữ chức danh lãnh đạo và công chức không giữ chức vụ lãnh đạo) nếu kiêm thêm công việc mà giảm được biên chế đều được hưởng một mức phụ cấp 20% mức lương hiện hưởng.
- Hoàn thiện các địa bàn, đối tượng hưởng các chế độ: phụ cấp khu vực, phụ cấp đặc biệt, phụ cấp thu hút, phụ cấp công tác lâu năm ở vùng đặc biệt khó khăn, phụ cấp lưu động, phụ cấp độc hại, nguy hiểm, phụ cấp trách nhiệm công việc, phụ cấp thâm niên nghề cho phù hợp với tình hình thực tế.
- Giảm mức phụ cấp ưu đãi theo nghề, trách nhiệm theo nghề cao nhất từ 70% hiện nay xuống 30% (do mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa và mức lương cơ bản đã được thiết kế trên cơ sở tính toán nhu cầu của người lao động), chỉ áp dụng đối với một số ít ngành, nghề có điều kiện lao động cao hơn bình thường hoặc thật sự cần thiết phải có ưu đãi của Nhà nước. Trên cơ sở đó, nghiên cứu bãi bỏ chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề, phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với một số đối tượng để bảo đảm tương quan chung sau khi đã mở rộng quan hệ tiền lương.
b) Tiếp tục thực hiện điều chỉnh tăng hằng năm chế độ phụ cấp công vụ cho đến khi đạt mức 50% để thể hiện rõ ưu đãi của nhà nước đối với cán bộ, công chức nhằm nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của cán bộ, công chức và lực lượng vũ trang; giúp thu hút người làm việc có chất lượng trong các cơ quan nhà nước và hệ thống chính trị.
c) Bổ sung chế độ phụ cấp theo phân loại đơn vị hành chính áp dụng đối với cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, gồm 3 mức: 5%, 10% và 15% mức lương hiện hưởng (thay cho việc quy định mức phụ cấp chức vụ khác nhau theo phân loại đô thị hiện nay).
d) Bãi bỏ chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung nếu thực hiện thiết kế bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ đối với công chức theo phương án mỗi ngạch (chức danh) chỉ có một mức lương.
5. Về chế độ nâng bậc lương, nâng ngạch:
a) Tiếp tục thực hiện chế độ nâng lương thường xuyên.
- Trường hợp thiết kế bảng lương theo phương án 1 như hiện nay (có một số bậc lương trong ngạch): Cứ sau mỗi khoảng thời gian xếp lương ở ngạch (3 năm đối với loại A, loại B, loại C và 2 năm đối với loại D) và hoàn thành nhiệm vụ được giao thì được nâng 1 bậc lương.
- Trường hợp thiết kế bảng lương theo phương án 2 (mỗi ngạch chỉ có một mức lương): Cứ sau mỗi khoảng thời gian xếp lương ở ngạch (3 năm đối với loại A, loại B, loại C và 2 năm đối với loại D) và hoàn thành nhiệm vụ được giao thì được hưởng thêm 5% mức lương hiện hưởng.
b) Sửa đổi thời gian được nâng lương trước thời hạn (12 tháng) khi có thông báo nghỉ hưu.
c) Nâng tỷ lệ từ 5% lên 10% cán bộ, công chức, viên chức được nâng lương trước thời hạn do lập thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ để tạo điều kiện cho nhiều công chức chuyên môn, nghiệp vụ có thành tích, có tài năng được thụ hưởng chính sách này.
d) Quy định rõ trong thời gian cán bộ, công chức nữ mang thai và nghỉ thai sản theo pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội được tính là thời gian hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cộng với thành tích trong thời gian giữ bậc còn lại để ưu tiên xét nâng bậc lương trước thời hạn do đạt thành tích xuất sắc.
đ) Đẩy nhanh việc thi nâng ngạch cạnh tranh gắn với vị trí việc làm, cơ cấu ngạch công chức, sắp xếp bố trí công việc phù hợp với ngạch công chức.
6. Cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập:
a) Đẩy mạnh việc thực hiện các quy định của Luật Cán bộ, công chức để từng bước thực hiện quản lý cán bộ, công chức theo vị trí việc làm. Trên cơ sở xác định rõ vị trí việc làm, biên chế của từng cơ quan, tổ chức, tiến hành đánh giá thực trạng cán bộ, công chức để từng bước sắp xếp, bố trí lại cán bộ, công chức cho phù hợp. Để khuyến khích các cơ quan, tổ chức tiết kiệm biên chế, nâng cao thu nhập, đề nghị thực hiện khoán quỹ tiền lương và kinh phí quản lý hành chính đến đơn vị trực tiếp sử dụng cán bộ, công chức.
b) Gắn cải cách tiền lương với cải cách hành chính, xác định rõ chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước của từng cơ quan, đơn vị, từng lĩnh vực quản lý.
c) Do mức lương đối với cán bộ, công chức nói chung đã được tính toán bảo đảm nhu cầu và để bảo đảm tương quan chung về tiền lương trong đội ngũ cán bộ, công chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước, đề nghị:
- Để bảo đảm tính thống nhất và tương quan tiền lương của cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước, đề nghị bãi bỏ các quy định hiện hành của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế quản lý tài chính và biên chế đối với các cơ quan: kho bạc, thuế, hải quan, Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban chứng khoán, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia hoặc giảm dần mức tiền lương cao hơn của cán bộ, công chức thuộc các cơ quan nêu trên tương ứng với mức tăng lương theo lộ trình (tương tự như đã làm đối với các doanh nghiệp nhà nước).
- Để cán bộ, công chức coi trọng công việc chính đảm nhiệm, minh bạch trong hoạt động công vụ và thu nhập của cán bộ, công chức, giảm các công việc (thời gian, biên chế) dành cho việc quyết toán (chứng từ) chi tiêu ngân sách nhà nước, đề nghị nghiêm cấm (bãi bỏ) các khoản chi ngoài lương có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước cho cán bộ, công chức, như: tiền bồi dưỡng họp, tiền bồi dưỡng cho người chủ trì hoặc tham gia đóng góp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đề án, đề tài, thù lao báo cáo viên hoặc giảng viên kiêm nhiệm, tiền hỗ trợ ăn trưa,...
IV. ĐỐI VỚI CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC TRONG CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
1. Mức lương tối thiểu (thấp nhất) của công chức, viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập bằng mức lương tối thiểu (thấp nhất) của cán bộ, công chức trong cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội.
2. Quy định 1 bảng lương áp dụng chung đối với công chức, viên chức ở tất cả các ngành sự nghiệp có mức lương tương đương với bảng lương công chức chuyên môn, nghiệp vụ và được áp dụng các chế độ phụ cấp lương như đối với cán bộ, công chức để làm căn cứ cấp hoặc hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước, tính đóng và hưởng bảo hiểm xã hội, đóng bảo hiểm y tế, trả lương ngày nghỉ theo chế độ. Tiền lương thực trả gắn với vị trí việc làm, chức danh nghề nghiệp theo quy định của Luật Viên chức và phụ thuộc vào nguồn thu (từ ngân sách cấp và từ xã hội hóa), kết quả hoạt động và do đơn vị sự nghiệp quyết định theo nguyên tắc đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính (trong đó có tiền lương) theo Kết luận số 20-KL/TW ngày 28/01/2008 của Hội nghị Trung ương 6 khóa X.
3. Đổi mới cơ chế quản lý và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp:
a) Đổi mới phương thức hoạt động, cơ chế tài chính và tiền lương đối với khu vực sự nghiệp công lập theo hướng đơn vị sự nghiệp được thu phí (giá) dịch vụ tính đủ tiền lương và từng bước tính đủ các chi phí khác; đơn vị sự nghiệp thực hiện hạch toán thu – chi (không vì mục đích lợi nhuận), trên cơ sở đó nâng cao chất lượng, phát triển hoạt động để vừa phục vụ tốt hơn nhu cầu của xã hội, vừa tự cân đối nguồn thu (nguồn từ ngân sách nhà nước thanh toán cho các đối tượng chính sách và cho các dịch vụ không có thu mà Nhà nước phải bảo đảm; nguồn do đối tượng thụ hưởng chi trả) nhằm tạo điều kiện thuận lợi phát huy tối đa tính chủ động, sáng tạo và nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp. Tăng cường phân cấp và tăng tính tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trên cơ sở có tính đến đặc điểm từng loại hình dịch vụ, khả năng và nhu cầu thị trường, trình độ quản lý để xác định mức độ, bước đi phù hợp. Nhà nước trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị công lập đồng bộ cả về tổ chức thực hiện nhiệm vụ, nhân lực, tài chính và thực hiện có lộ trình việc xóa bỏ bao cấp qua giá, phí dịch vụ. Chuyển đổi cơ chế cấp phát kinh phí sang hình thức đặt hàng trên cơ sở hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật và tiêu chí, tiêu chuẩn của từng loại hình dịch vụ để các đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ về chi phí thường xuyên. Đi đôi với đổi mới cơ chế, tiếp tục hỗ trợ cho các đối tượng chính sách xã hội, các đối tượng nghèo sử dụng các dịch vụ này. Thực hiện minh bạch hóa trong các hoạt động liên doanh, liên kết của các đơn vị sự nghiệp công; khắc phục tình trạng công - tư lẫn lộn; đổi mới cơ chế phân phối theo hướng vừa bảo đảm quyền lợi của người lao động vừa có tích lũy để tái đầu tư tăng cường cơ sở vật chất của đơn vị sự nghiệp công.
b) Phân loại các đơn vị sự nghiệp để có cơ chế quản lý đối với từng loại theo quy định của Luật Viên chức, gồm:
- Đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự;
- Đơn vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự.
V. CÁC GIẢI PHÁP TẠO NGUỒN
1. Thực hiện đồng bộ các giải pháp thu ngân sách nhà nước để bảo đảm nguồn thu ngân sách hàng năm; đồng thời tăng cường quản lý giá cả, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối vĩ mô của kinh tế.
2. Bố trí cân đối chi ngân sách nhà nước theo hướng xác định tỷ trọng chi đầu tư phát triển hợp lý trong tổng chi ngân sách nhà nước để dành nguồn cho chi cải cách tiền lương và các nhiệm vụ an sinh xã hội đã ban hành.
3. Thực hiện rà soát tổng thể các nhiệm vụ đã ban hành trong thời gian qua, các nhiệm vụ nào đã hoàn thành mục tiêu thì dừng bố trí kinh phí; đối với các nhiệm vụ cần tiếp tục ban hành thì phải xem xét lồng ghép, đảm bảo nâng cao hiệu quả, tránh lãng phí; đối với các nhiệm vụ mới dự kiến ban hành, cần tính toán kỹ để đảm bảo đủ nguồn lực thực hiện, đảm bảo cân đối và an ninh tài chính quốc gia.
4. Đẩy nhanh lộ trình xã hội hóa các loại hình sự nghiệp, nhất là y tế, giáo dục với mức độ cao hơn để tiến tới các đơn vị sự nghiệp tự lo trang trải tiền lương và một phần chi phí hoạt động.
5. Phân cấp cho chính quyền địa phương về sử dụng biên chế gắn với ngân sách trả lương đối với cán bộ, công chức trên địa bàn theo hướng địa phương có nguồn thu, kinh tế phát triển thì được chi trả tiền lương tăng thêm không quá 50% so với chế độ tiền lương do Nhà nước quy định.
Bộ Nội vụ
Tiêu đề do VietNamNet đặt