GS Trần Ngọc Thêm cho rằng "Từ chỗ coi trọng cái bằng mà sinh ra cách học đối phó, học để thi... Việc đối phó với thi cử đẻ ra tệ nạn quay cóp. Tệ nạn này nghiêm trọng đến chừng nào và phổ biến đến đâu thì thực tiễn cuộc sống và các số liệu điều tra đều dẫn đến cùng một kết quả...".
Xem phần 1:
"Người hiếu học thực sự đi học nhằm để khai trí, đạt thức, và thông tuệ" (Ảnh Đinh Quang Tuấn) |
Về “đức tính cần cù” và “huyền thoại về tính cần cù”
Một bạn đọc chưa tán thành cách giải thích vì sao người Việt lười hơn các dân tộc châu Á khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, bởi lý do thời tiết hay vị trí địa lý là không chuẩn: Trước hết, tôi không nói rằng thời tiết hay vị trí địa lý là toàn bộ lý do. Sự khác biệt về điều kiện tự nhiên chỉ là lý do dẫn đến sự khác biệt về cách thức mưu sinh. Và sự khác biệt về cách thức mưu sinh trong một thời gian dài (cùng một số yếu tố khác nữa) sẽ tạo nên sự khác biệt về tính cách dân tộc.
Bình luận này nói tiếp: “Nhật Bản, Hàn Quốc chỉ là 2 trong số rất nhiều quốc gia có điều kiện thời tiết khắc nghiệt hơn Việt Nam. Nhưng cũng chỉ có 2 quốc gia đó là phát triển”, thêm nữa “trong thời phong kiến họ cũng là quốc gia kinh tế kém phát triển”. Ý này có chỗ đúng và có chỗ sai. Chỗ đúng (rất quan trọng) là không phải cứ cần cù là sẽ phát triển. Chỗ sai là trong số những quốc gia có điều kiện thời tiết khắc nghiệt hơn ta, không chỉ có Nhật Bản, Hàn Quốc là phát triển: Nhiều quốc gia phương Tây ở xứ lạnh, thời tiết rất khắc nghiệt, nhưng đều phát triển rất sớm.
Việc đưa sự kiện “dạy thêm học thêm ngăn chặn mãi không được và học sinh vừa đi đường vừa xúc cơm ăn ngay trên xe máy” làm cơ sở chứng minh cho tính cần cù hiếu học có chỗ không ổn. Bởi cái “cần cù hiếu học” này không phải xuất phát từ sự tự nguyện tự giác của các em mà là do áp lực của cha mẹ và xã hội (con ngoan mà!).
Ta sẽ nghĩ sao nếu nhớ rằng những công chức “sáng cắp ô đi tối cắp ô về” hiện nay, những người đang lấp đầy các quán cà phê buổi sáng và các quán nhậu buổi chiều hiện nay, khi còn nhỏ đều đã từng mất hết tuổi thơ vì phải học thêm, từng vừa đi đường vừa xúc cơm ăn ngay trên xe máy? Chả lẽ là lúc nhỏ cần cù hiếu học để rồi khi lớn lên thì nghỉ bù, ăn chơi bù?
Tôi nói ở người Việt, cần cù chỉ là huyền thoại còn là căn cứ trên những tiêu chí khách quan với những số liệu rất cụ thể. Tôi so sánh với Hàn Quốc, Nhật Bản vì đây là những quốc gia được thừa nhận là cần cù nhất thế giới. Chẳng hạn, xét theo số giờ làm việc trung bình trong năm thì người Hàn Quốc làm việc gấp 1,3 lần nhiều hơn so với người Nhật và 1,5 lần nhiều hơn so với người Mỹ, trong khi số ngày nghỉ của họ chỉ bằng 1/2 của người Nhật và 1/5 của người Mỹ. Đến lượt mình, so với người Mỹ thì người Nhật cũng làm việc gấp 1,3 lần nhiều hơn, trong khi số ngày nghỉ của họ chỉ bằng một nửa.
Nhìn vào những con số trên ta sẽ tự thấy Việt Nam nằm ở chỗ nào, khi mà nước ta có số lượng lễ hội trong năm vào loại cao nhất thế giới (khoảng 8.000 lễ hội) nhưng lại có năng suất lao động (theo số liệu do Tổ chức Lao động Quốc tế ILO công bố năm 2015) đứng cuối khu vực: thấp hơn Singapore gần 15 lần, thấp hơn Nhật 11 lần và thấp hơn Hàn Quốc 10 lần.
Tôi gọi “tính cần cù” của người Việt là huyền thoại vì theo Từ điển tiếng Việt (do Hoàng Phê chủ biên) thì huyền thoại là “câu chuyện huyền hoặc, kỳ lạ, hoàn toàn do tưởng tượng”. “Tính cần cù” của người Việt chính là một sự tưởng tượng như thế.
Về chuyện hiếu học hay hiếu danh
Người hiếu học thực sự đi học nhằm để khai trí, đạt thức, và thông tuệ. Thi cử chỉ là một cách đánh giá. Danh phận, địa vị chỉ là hệ quả.
Trong khi người Việt ta đi học (tất nhiên không phải là tất cả) thường nhằm đến danh phận, địa vị nên mới quá coi trọng cái bằng. Từ chỗ coi trọng cái bằng mà sinh ra cách học đối phó, học để thi. Thi gì thì học nấy, nhiều khi thi xong là quên luôn, còn cái gì không thi thì bỏ qua. Việc đối phó với thi cử đẻ ra tệ nạn quay cóp. Tệ nạn này nghiêm trọng đến chừng nào và phổ biến đến đâu thì thực tiễn cuộc sống và các số liệu điều tra đều dẫn đến cùng một kết quả:
Về mức độ nghiêm trọng thì điển hình nhất là sự kiện diễn ra ở trường THPT dân lập Đồi Ngô (Lục Nam, Bắc Giang) trong kỳ thi tốt nghiệp năm 2012, khi mà có tới 12 video-clip quay lại cảnh gian lận có sự tiếp tay và đồng lõa cùa các giám thị do chính các thí sinh thực hiện được tung lên mạng. Nhận xét về vụ này, giáo sư Ngô Bảo Châu từng cho rằng “Đây là một sự kiện đặc biệt... chưa từng có tiền lệ trong lịch sử loài người”.
Hình ảnh vi phạm quy chế thi tại hội đồng thi Trường THPT DL Đồi Ngô - Bắc Giang (Ảnh cắt từ clip) |
Về mức độ phổ biến thì sự gian lận này không chỉ có ở thí sinh mà ở nhiều nơi đã trở thành hiện tượng có tổ chức gần như công khai (có nơi thu tiền để hối lộ giám thị; hàng thùng giấy photo bài giải được đưa vào giao cho nhân viên phục vụ mang đi phân phát ở các phòng thi).
Trong đợt chấm thi tốt nghiệp THPT năm 2003 có một số tỉnh cầu cứu Bộ cho mở đáp án riêng cho tỉnh mình để nâng tỉ lệ đỗ từ 50% lên 70%. Năm 2010, thậm chí 12 tỉnh ở đồng băng sông Cửu Long đã liên kết với nhau tự ý hạ chuẩn đáp án của Bộ để nâng tỉ lệ đỗ tốt nghiệp của toàn vùng. Trong kỳ thi tốt nghiệp năm 2014 tại một trường THPT ở Hà Tây, khi thi thử có 90% trượt, đến khi thi thật thì đỗ tới 100%!
Trong cuộc điều tra do chúng tôi thực hiện năm 2014 với khoảng 5.600 người tham gia, trả lời câu hỏi về việc “Giở sách quay cóp khi thi cử”, có 79,3% thừa nhận đã từng thực hiện điều này trong hành động hoặc suy nghĩ; riêng đã thực hiện trong hành động cũng có tới 64,2%. Số chưa bao giờ nghĩ đến chỉ chiếm 20,7%.
Một lối học như thế, nếu vẫn cứ muốn gọi là hiếu học thì có lẽ cụm từ “hiếu học lạc hậu” của PGS. Văn Như Cương – nhà sư phạm, người sáng lập và Hiệu trưởng Trường PTDL Lương Thế Vinh – có thể xem là phù hợp khi ông cho rằng “Chúng ta đang sống trong xã hội hiếu học lạc hậu, bởi ai cũng muốn vào đại học, dù số đông sinh viên ra trường không có việc làm”.
Ngoan trong “con ngoan” nên hiểu như thế nào?
Có ý kiến so sánh rằng nếu “ngoan” mà tệ thế thì nước Nhật sẽ ngày càng "tệ hại" vì người Nhật cúi đầu chào lễ phép khi gặp nhau. Nhầm lẫn này có thể hiểu được vì trong tiếng Việt có hai cách hiểu về “ngoan”.
Cách hiểu thứ nhất được ghi nhận trong mọi từ điển chính là “dễ bảo, biết nghe lời”: “Việt Nam tự điển” của Hội Khai Trí Tiến Đức (xuất bản năm 1931) giải thích ngoan là “có nết na, dễ bảo” (đứa bé này ngoan, cô gái ngoan). “Từ điển tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học (do Hoàng Phê chủ biên) cũng định nghĩa ngoan (trong “đứa bé ngoan”) là “nết na, dễ bảo, biết nghe lời”. Trái nghĩa với ngoan (khó bảo, bướng bỉnh) là “hư”.
Cách hiểu thứ hai tuy không thấy ghi nhận trong từ điển nào, nhưng tồn tại trên thực tế, đồng nhất “ngoan ngoãn” với “lễ phép”. Sau năm 1975 người miền Bắc vào Nam đều có nhận xét rằng trẻ em miền Nam “ngoan hơn”, đi về khoanh tay thưa gửi rất lễ phép. Lối giao tiếp của người Nhật, người Thái, Lào, Mianmar... đều được xem là thuộc phạm trù này.
Trong hai cách hiểu thì cách hiểu thứ nhất (ngoan = dễ bảo) là nghĩa chính, sử dụng phổ biến. Vì là nghĩa phổ biến nên nó được ghi nhận trong mọi từ điển xưa nay. Chính cách hiểu này nằm trong vô thức của người Việt Nam, từ gia đình vào đến nhà trường và ra đến xã hội.
Xem phần cuối:
GS Trần Ngọc Thêm